Thứ Tư, 10 tháng 12, 2008

Phần I
NGHI THỨC
ĐỘI THIẾU NIÊN TIỀN PHONG HỒ CHÍ NINH

1. Cờ Đội: - Nền đỏ. - Hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài. - Ở chính giữa có hình huy hiệu Đội. - Đường kính huy hiệu bằng hai phần năm chiều rộng cờ.
- Điều lệ Đội thiếu niên tiền phong Hồ chí Minh chỉ quy định chung để thống nhất trong tổ chức của mình. Trong điều kiện hiện nay các cơ sở và tập thể Đội sử dụng cờ theo đúng quy định trên. Không gọi là cờ chi đội, cờ liên đội mà gọi là cờ Đội. Các liên đội có cờ truyền thống của mình may đúng quy định của Điều lệ Đội và có thể ghi tên liên đội ở trong cờ, dưới huy hiệu măng non và có tua vàng ở ba cạnh. 2. Huy hiệu Đội - Huy hiệu Đội TNTP Hồ Chí Minh hình tròn, ở trong có hình măng non trên nền cờ đỏ sao vàng. Ở dưới có băng chữ “Sẵn sàng”.
3. Khăn quàng : - Khăn quàng đỏ bằng vải màu đỏ, hình tam giác cân, có đường cao bằng một phần tư cạnh đáy. - Đội viên quàng khăn quàng đỏ khi đến trường và sinh hoạt Đội tham gia các hoạt động của Đội.
- Khăn quàng đội viên có kích thước tối thiểu: + Chiều cao: 0.25 m.
+ Cạnh đáy: 1,00m.
- Khăn quàng phụ trách có kích thước tối thiểu: + Chiều cao: 0.30m. + Cạnh đáy: 1.20m. 4. Đội ca: Bài hát: Cùng nhau ta đi lên. Nhạc và lời: Phong Nhã. 5. Khẩu hiệu Đội:
“Vì tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Vì lý tưởng của Bác Hồ vĩ đại
“Sẵn sàng”6. Cấp hiệu chỉ huy Đội - Cấp hiệu chỉ huy Đội hình chữ nhật đứng, khổ 5cm x 6cm, hai góc ở dưới tròn, nền màu trắng, ở trong có sao đỏ và vạch đỏ. Mỗi sao đỏ có đường kính 0.8cm, mỗi vạch đỏ có kích thước 0.5cm x 4cm. - Phân biệt các cấp chỉ huy Đội bằng số lượng sao và vạch được quy định như sau: + Phân đội trưởng: Hai sao một vạch. + Phân đội phó: Một sao một vạch. + Chi đội trưởng: Hai sao hai vạch. + Chi đội phó: Một sao hai vạch. + Uỷ viên ban chỉ huy chi đội: Hai vạch. + Liên đội trưởng: Hai sao ba vạch. + Liên đội phó: Một sao ba vạch. + Uỷ viên ban chỉ huy liên đội: Ba vạch.7. Giấy chứng nhận đạt chuyên hiệu và hoàn thành Chương trình rèn luyện đội viên - Giấy chứng nhận hoàn thành Chương trình rèn luyện đội viên của từng hạng được cấp cho đội viên sau khi kiểm tra và đạt tiêu chuẩn theo quy định trong Chương trình rèn luyện đội viên. 8.Đồng phục của đội viên
- Đội viên nam:+Áo sơ mi màu trắng. Quần sẫm màu.- Đội viên nữ:+ Áo sơ mi màu trắng.+ Quần âu hoặc váy sẫm màu.- Đi giầy hoặc dép có quai hậu.(cho cả nam và nữ)
- Đồng phục nghi lễ của Đội (Đội cờ, kèn, trống):
+ Áo màu trắng viền đỏ
+ Quần âu(hoặc váy) màu trắng, viền đỏ.
+ Mũ ca lô màu trắng, viền đỏ.
+ Giầy bata màu trắng.
+ Băng danh dự dành cho hộ cờ (đeo vắt qua vai trái)9. Trống , Kèn:
- Mỗi liên đội có ít nhất một bộ trống (gồm một trống cái và ít nhất hai trống con), một kèn (nếu có điều kiện).- Các bài trống: Chào cờ, hành tiến, chào mừng.- Các bài kèn: Kèn hiệu, chào mừng, tập hợp.10. Sổ sách của Đội
a.Sổ -Sổ nhi đồng.
- Sổ chi đội.- Sổ liên đội.- Sổ truyền thống.
- Sổ Tổng phụ trách Đội
b. Sách- Điều lệ và hướng dẫn thực hiện Điều lệ Đội TNTP Hồ Chí Minh.- Nghi thức và hướng dẫn thực hiện nghi thức Đội TNTP Hồ Chí Minh.- Hướng dẫn thực hiện chương trình rèn luyện phụ trách.- Hướng dẫn thực hiện chương trình rèn luyện đội viên.- Búp măng xinh.11. Phòng truyền thống, phòng Đội- Mỗi liên đội có phòng truyền thống, phòng Đội là nơi trưng bày các hình ảnh, hiện vật truyền thống, thành tích của Đội và sinh hoạt Đội.12. Yêu cầu đối với đội viên- Thuộc, hát đúng Quốc ca, Đội ca và một số bài hát truyền thống, sinh hoạt tập thể của Đội.- Thắt khăn, tháo khăn quàng đỏ.- Chào kiểu đội viên TNTP.- Thực hiện các động tác cầm cờ, giương cờ, vác cờ.- Hô, đáp khẩu hiệu Đội.- Thực hiện các động tác trong đội hình và nghi lễ của Đội.
- Biết 3 bài trống của Đội.13. Đội hình , đội ngũ của Đội- Đội hình hàng dọc, hàng ngang, chữ U, vòng tròn.14. Nghi lễ của Đội - Chào cờ, diễu hành, duyệt Đội, kết nạp đội viên, công nhận chi đội, trưởng thành Đội, đại hội Đội, Đại hội Cháu ngoan Bác Hồ.15. Nghi thức dành cho phụ trách- Phụ trách quàng khăn đỏ khi sinh hoạt Đội và tham gia các hoạt động của Đội.- Đồng phục:
+ Áo màu xanh hoà bình, theo mẫu của đồng phục Thanh niên Việt Nam trên nắp áo ngực trái là phù hiệu của “Phụ trách thiếu nhi”.
+ Quần màu sẫm.
+ Giầy hoặc dép có quai hậu.

PHẦN II
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN NGHI THỨC ĐỘI THIẾU NIÊN TIỀN PHONG HỒ CHÍ MINH

- Nghi thức là một phương tiện giáo dục của Đội TNTP Hồ Chí Minh. Với những quy định biểu hiện bằng ngôn ngữ, hình thức tượng trưng, thủ tục, nghi lễ của đội ngũ, Nghi thức Đội góp phần mạnh mẽ vào việc xây dựng phương pháp giáo dục toàn diện, mang nét đặc trưng của Đội.
Trong đó, nổi bật là ý thức tổ chức kỉ luật, tư thế, tác phong và tinh thần tập thể cho đội viên, tạo ra vẻ đẹp tính nghiêm chỉnh và sự thống nhất của tổ chức Đội. Nghi thức Đội được tiến hành thường xuyên trong mọi hoạt động rèn luyện của Đội để tạo thành thói quen, nề nếp tốt cho đội viên trong tổ chức Đội.
Việc tiến hành giáo dục bằng Nghi thức Đội đòi hỏi phải có tính thuyết phục cao, tính nghiêm túc, tính chính xác và thống nhất. Có như vậy thì mới làm cho Nghi thức Đội trở thành nhu cầu thực hiện của mỗi đội viên và tập thể Đội.1. Cờ Đội
Cờ Đội tượng trưng cho truyền thống cách mạng, truyền thống đội, tượng trung cho lòng yêu tổ quốc, niềm vinh dự và tự hào của đội. Dưới cờ đội hàng ngũ sẽ chỉnh tề hơn, thúc dục đội viên tiến lên. Mỗi chi đội và liên đội thiếu niên tiến phong Hồ Chí Minh đếu có cờ Đội
2. Huy hiệu Đội:
Nền đỏ sao vàng là cờ tổ quốc. Măng non tượng trưng cho lứa tuổi thiếu niên là thế hệ tương lai của dân tộc Việt Nam anh hùng. Băng chữ “Sẵn sàng” là khẩu hiệu hành động của Đội thiếu niêu tiền phong Hồ Chí Minh. Đeo huy hiệu Đội nhắc nhở đội viên học tập và rèn luyện để sẵn sàng kế tục sự nghiệp cách mạng vinh quang của Đảng, của Bác Hồ và của dân tộc…
Đội viên Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh đeo huy hiệu đội ở ngực áo bên trái.
3.Khăn quàng đỏ:
Khăn quàng đỏ là một phần cờ tổ quốc, màu đỏ tượng trưng cho lý tưởng cách nạg. Đeo khăn quàng đỏ, đội viên thiếu niên tiền phong Hồ chí Minh tự hào về tổ quốc, về Đảng cộng sản Việt Nam, về Bác Hồ vĩ đại, về nhân dân Việt Nam anh hùng và nguyện phấn đấu để trở thành đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Đội viên đeo khăn quàng đỏ khi đến trường trong mọi sinh hoạt và hoạt động Đội.
Đội viên lớn (14 – 15 tuổi) đeo khăn quàng đỏ hoặc huy hiệu Đội khi sinh hoạt đội và tham gia các hoạt động của Đội.
4.Đội ca:
Đội ca chỉ hát trong buổi lễ chào cờ đầu tuần của liên đội hoặc các nghi lễ theo nghi theo đội, do toàn thể đội viên hát, có thể đệm nhạc theo (không dùng băng nhạc, đĩa hát thay)
5.Khẩu hiệu Đội:
Sau khi chào cờ, hát xong Quốc ca, đội ca, người điều hành nghi lễ chào cờ hô khẩu hiệu đội:
“Vì tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Vì lý tưởng của Bác Hồ vĩ đại
Sẵn sàng”
6. Cấp huy hiệu Đội:
Cấp huy hiệu đội biểu hiện trách nhiệm vinh dự của ngưởi chỉ huy được tập thể tín nhiệm giao phó.
- Trao cấp hiệu chỉ huy Đội trong Đại hội sau khi bầu và phân công Ban chỉ huy, đại diện Đoàn thanh niên, Hội đồng Đội hoặc Tổng phụ trách công nhận Ban chỉ huy mới, gắn cấp hiệu cho Ban chỉ huy. Đeo cấp hiệu ở tay áo trái, dưới cầu vai 5cm.
7. Chứng nhận hoàn thành chương trình rèn luyện đội viên:
- Chứng nhận hoàn thành chương trình rèn luyện đội viên của từng hạng được cấp cho đội viên sau khi kiểm tra và đạt tiêu chuẩn theo quy định trong chương trình rèn luyện đội viên.
- Chứng nhận hoàn thành cương trình rèn luyện đội viên do Hội đồng Đội hoặc Đoàn thanh niên cấp xã ký và cấp.
- Việc thực hiện, kiểm tra, công nhận hoàn thành chương trình rèn luyện đội viên theo sách hường dẫn thực hiện chương trình rèn luyện đội viên của Hội đồng Trung ương Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.
8. Đồng phục đội viên:
Đồng phục của độ viên là thể hiện tình thống nhất và là đặc trưng của tổ chức Đội. Khi mặc đồng phục, đội viên sẽ thấy tự hào và trách nhiệm của mình với tỷô chức Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.
- Đội viên mặc đồng phục trong sinh hoạt và hoạt động tập thể của Đội.
Đội nghi lễ mặc đồng phục khi tiến hành các nghi lễ chỉ đội mũ calô theo nghi thức đội, không đội các loại mũ khác.
9. Trống, kèn:
* Trống chào cờ.
* Trống chào mừng.
* Trống hành tiến.
* Kèn hiệu.
* Kèn chào mừng;
* Kèn tập hợp;
9.1- Trống: Bộ trống của thiếu nhi Việt Nam có tối thiểu 3 trống (trong đó có 1 trống cái).
- Trống chào mừng: Đánh trong lễ đón đại biểu, lễ chào mừng.
- Trống chào cờ: Đành 3 hồi trong lễ chào cờ theo nghi thức Đội.
- Trống hành tiến: Đánh khi đội ngũ hành tiến.
Cách đánh 3 bài trống quy định
Trước hết, cần hiểu rõ cách đánh nốt tô điểm mà trong danh từ âm nhạc viết cho trống người ta thường gọi là: Ra
Cụ thể như sau:
* Ghi:
* Thực đánh…nghĩa là 2 nốt chính và phụ đều rơi vào đầu phách chứ không phài nốt phụ ở cuối phách trước.
Cách đánh như sau:
* Tay phải(tay úp)-Ký hiệu bằng chữ: P
Ký hiệu số: 1,3,5,7,9(nốt chính)- cầm dùi để sát mặt trống.
* Tay trái(tay ngửa) – Ký hiệu bằng chữ T.
Ký hiệu số: 2,4,6,8 (nốt phụ)- cầm dùi cách mặt trống từ 10-15 cm.
Khi đánh, tay phải (nốt chính) và tay trái (nốt phụ) rơi cùng một lúc xuống mặt trống đồng thời đảo tay. Chú ý nhấn mạnh vào nốt chính.
Cách đánh cụ thể từng bài:
1. Trống chào mừng: Đánh trong lễ đón đại biểu, lễ chào mừng.
* Nốt nhạc ghi:
* Cách đếm trong con bắng số:
* Cách đếm trống cái ghi bằng số:
2. Trống chào cờ: Đánh 3 hồi trong lễ chào cờ theo nghi thức Đội. Mỗi lần cách nhau một phách nghỉ.
(Vào nhịp vừa phải theo hành khúc).
* Nốt nhạc ghi:
* Cách đếm trống con ghi bằng số:
* Cách đếm trống cái ghi bằng số:
3. Trống hành tiến: Đánh khi đội ngũ hành tiến.
* Nốt nhạc ghi:
* Cách đếm trống con ghi bằng số:
* Cách đếm trống cái ghi bằng số:
Chú ý:
* Bài trống chào mừng khi đánh riêng thì đánh 3 lần. Khi phối hộp với kèn thì đánh 4 lần.
* Bài trống chào cờ đánh 3 lần, cuối mỗi lần ở chỗ dồn từ 1 đến 9, em chỉ huy giữ cờ nguyên, sau đó đánh tiếp từ phách ngược (1234).
* Cách đeo trống: dây trống vắt qua vai trái, mặt trống cái để chéch với mặt đất 1 góc 75-85 độ, mặt trống con để chếch với mặt đất 1 gòc từ 15-30 độ.
9.2 Kèn: Những đơn vị có kèn thì sử dụng 3 bài sau:
- Kèn hiệu chào cờ: Thổi sau khi chỉ huy hô “Nghiêm” trong lễ chào cờ.
- Kèn chào mừng: Thổi trong lễ đón Đại biểu, lễ chào mừng.
- kèn tập hợp; Thổi 3 lần để báo hiệu tập hợp.
Trong các hoạt động và nghi lễ đội, đội trống, kèn phối hợp sử dụng các bản nhạc để đệm cho các tập thể Đội hát, (các bản nhạc quy định trong giáo trình dạy trống, kèn do Hội đồng Đội trung ương phát hành).
10. Sổ, sách của Đội gồm:
10.1-Sổ nhi đồng:
- Danh sách nhi đồng.
- Danh sách các sao nhi đồng trong lớp.
- Chương trình, kế hoạch sinh hoạt sao trong năm học.
- Nội dung các chủ điểm sinh hoạt sao của từng tháng.
- Theo dõi chương trình dự bị đội viên.
Mẫu: Theo “Sổ nhi đồng” do Hội đồng Đội Trung ương ban hành.
10.2- Sổ chi đội:
- Danh sách đội viên: Ghi tóm tắt lý lịch của đội viên trong chi đội.
- Theo dõi thực hiện chương trình rèn luyện đội viên: Ghi kết quả kiểm tra cac loại chuyên hiệu và hoàn thành chương trình theo từng hạng.
- Ghi những quyết định công tác và kết quả các hoạt động của chi đội.
Ghi những thành tích lớn của chi đội, các điển hình xuất sắc, các hình thức đã được khen thưởng.
Mẫu: Theo “Sổ chi đội” do Hội đồng Đội trung ương ban hành.
10.3- Sổ liên đội:
- Theo dõi tổ chức: Ghi số lượng các chi đội, đội viên và một số kết quả đạt tiêu chuẩn thực hiện chương trình rèn luyện đội viên, cháu ngoan Bác Hồ, cho đội mạnh…
- Ghi những nghị quyết, công tác và kết quả các đợt hoạt động của liên đội…
Mẫu: theo “Sổ liên đội” do Hội đồng Đội trung ương ban hành.
10.4- Sổ truyền trống:
- Ghi những thành tích lớn của liên đội, cac điển hình xuát sắc, cac sự kiện quan trọng, các hình thức đã được khen thưởng.
10.5- Sổ Tổng phụ trách Đội: có 9 phần:
Phần 1: Chương trình, kế hoạch hoạt động của năm học:
Phần 2: các số liệu thống kê của liên đội từ đầu năm học.
Phần 3: các loại danh sách;
Phần 4: Công trình măng non:
Phần 5: Hoạt động tử thiện.
Phần 6: Kế hoạch nhỏ:
Phần 7: Nội dung các đợt thi đua.
Phần 8: Nhận giải thưởng các loại.
Phần 9: Các công tác khác.
Mẫu: Theo “Sổ Tổng phụ trách Đội” do Hội đống Đội trung ương ban hành.
Hội đồng Đội trung ương khoá VI bam hành bộ sổ tay thông nhất cả nước gồm: Sổ tay phụ trách Đội, sổ tay đội viên, sổ tay nhi đồng, sổ tay phụ trách sao…
Ngoài ra, theo nhu cầu hoạt động các chi đội, liên đội có thể thêm cac loại sổ của đơn vị mình.
11. Phòng truyền thống, phòng Đội:
Phòng truyền thống, phòng Đội là nơi tỗ chức Lễ kết nạp đội viên mới, sinh hoạt truyền trống, họp Ban chỉ huy liên đội hoặc các hoạt động của liên đội với quy mô nhỏ…Phòng truyền thống, phòng Đội gồm: Phần trưng bày các hình ảnh hoạt động và thành tích của đơn vị, bảo quản các dụng cụ hoạt động đội như: cờ, kèn, trống…”Tủ sách nghiệp vụ công tác Đội” có: sách nghiệp vụ, sách kỹ năng, sách giáo dục về truyền thống, về Bác Hồ, truyền thốngcủa Đảng, Đoàn, Đội, lịch sử địa phương, đơn vị và các loại sổ của Đội…
12. Yêu cầu đối với đội viên:
12.1- Thuộc và hát đúng Quốc ca, Đội ca và một số bài hát truyền thống, sinh hoạt tập thể của Đội.12.2. Thắt khăn, tháo khăn quàng đỏ.
* Thắt khăn quang đỏ:
- Dựng cổ áo lên, gấp xếp đổi chiều cạnh đáy khăn, để phần chiếu cao khăn còn khoảng 15 cm, đặt khăn vào cổ áo, so hai đầu khăn bằng nhau, đặt dải khăn bên trái lên dải khăn bên phải.
- Vòng đuôi khăn bên trái vào trong, đưa lên trên và kéo ra phía ngoài.
- Lấy đuôi khăn bên trái vòng từ trài sang phải và buộc tiếp thành nút (từ phải sang trái) với dải khăn bên phải
- Thắt nút khăn, chỉnh cho hai dải trên và dưới nút khăn xoà ra, sửa nút khăn vuông vắn, bẻ cổ áo xuống.
Động tác thắt khăn quàng đỏ (1)
Động tác thắt khăn quàng đỏ (2)
Động tác thắt khăn quàng đỏ (3)
Động tác thắt khăn quàng đỏ (4)
* Tháo khăn quàng đỏ:
Tay trái cầm nút khăn, tay phải cầm dải khăn phải phía trên nút, rút khăn ra.
Động tác tháo khăn quang đỏ
12.3-Chào kiểu đội viên Thiếu niên tiền phong:
Đội viên đứng ở tư thế nghiêm, mắt hướng về phía chào, chào bằng tay phải, các ngón tay khép kín giơ lên đầu cách thuỳ trán bên phải khoảng 5cm, bàn tay thẳng với cánh tay dưới, khuỷu tay chếch ra phía trước tạo với thân người một góc khoảng 130 độ
- Giơ tay lên đầu biểu hiện đội viên luôn luôn đặt lợi ích Tổ quốc và của tập thể Đội lên trên, năm ngón tay khép kín tượng trưng cho ý thức đoàn kết của đội viên để xây dựng Đội vững mạnh.
- Giơ tay chào và bỏ xuống theo đường ngắn nhất, không gây tiếng động.
- Đội viên chào khi dự lễ chào cờ, đón đại biểu, báo cáo cấp trên, làm lễ tưởng niệm . . . chỉ chào khi đeo khăn quàng đỏ hoặc đeo huy hiệu Đội.
12.4. Cầm cờ, giương cờ, vác cờ, kéo cờ
* Cầm cờ : Bàn tay phải nắm cán cờ cao ngang thắt lưng, đốc cán cờ đặt trên mặt đất, sát ngón út bàn chân phải.
- Cầm cờ ở tư thế nghiêm : Khi có lệnh “Nghiêm!”, kéo cán cờ áp sát vào thân mình, người ở tư thế nghiêm.
Cầm cờ ở tư thế nghiêm
- Cầm cờ nghỉ : Khi nghe khẩu lệnh “Nghỉ!”, chân trái chùng và ngả cờ ra phía trước, tạo với thân người 1 góc 45o.
- Giương cờ : Được thực hiện khi chào cờ, lễ duyệt Đội, diễu hành và đón đại biểu.
Tư thế giương cờ
+ Từ tư thế cầm cờ nghiêm chuyển sang giương cờ : Tay phải cầm cờ giương lên trước mặt, tay thẳng và vuông góc với thân người, cán cờ dựng thẳng đứng. Tay trái nắm cán cờ dưới bàn tay phải khoảng 20cm – 30cm, tay phải di chuyển xuống nắm sát đốc cán cờ, kéo sát vào ngang sườn đưa về tư thế giương cờ.
+ Từ tư thế vác cờ chuyển sang giương cờ : Tay phải kéo đốc cán cờ về sát thân người, tay trái đẩy cán cờ ra phía trước về tư thế giương cờ.
* Vác cờ : Được sử dụng khi diễu hành, khi đưa cờ vào làm lễ chào cờ, lễ duyệt Đội, lễ đón đại biểu . . .
Động tác tư thế vác cờ : Từ tư thế cầm cờ nghiêm, tay phải cầm cờ giương lên trước mặt, tay thẳng và vuông góc với thân người. Tay trái nắm cán cờ dưới bàn tay phải khoảng 20cm – 30cm, tay phải di chuyển xuống nắm sát đốc cán cờ, đưa thẳng ra phía trước nghiêng với mặt đất góc khoảng 45o, tay trái kéo cán cờ đặt lên vai phải đưa về tư thế vác cờ.
Tư thế vác cờ
* Kéo cờ: Động tác kéo cờ được sử dụng trong lễ chào cờ.
- Kéo cờ trong các buổi lễ: cờ được buọc sẵn vào dây. Đội cờ cò 2 em, 1 em kéo cò, 1 em nâng cờ quay về phía cột cờ.
- Động tác keo cờ: Phải cầm tách dây, không cho cờ bị rối xoắn vào dây, ròng rọc phải trơn, khi ngoắc cờ vào dây phải nhanh (chuẩn bị khuyết móc sẵn)
* Khẩu lệnh khi thực hiện các động tác sử dụng cờ:
-Nghiêm!
- Nghỉ!
- Chào cờ - chào! (cờ giương hoặc kéo).
- Giương cơ!
- Vác cờ!
12.5. Hô đáp khẩu hiệu Đội:
Trong lễ chào cờ, sau khi nghe người điều hành hô khẩu hiệu đội, toàn đơn vị hô đáp lại: “Sẵn sàng”, một lần, không giơ tay.12.6. Các động tác cá nhân tại chỗ và di động:
- Đứng nghỉ : Người ở tư thế đứng, khi có lệnh “Nghỉ!” hai tay để thẳng thoải mái, chân trái hơi chùng xuống, trọng tâm dồn vào chân phải, khi mỏi có thể đổi chân.
- Đứng nghiêm : Người ở tư thế đứng, khi có lệnh “Nghiêm!” người đứng thẳng, mắt nhìn thẳng, hai tay thẳng khép sát thân người, bàn tay nắm tự nhiên, hai chân thẳng, khép sát, hai bàn chân tạo thành hình chữ V ( Góc 60o ).
- Quay bên trái : Khi có lệnh “Bên trái – Quay!”, sau động lệnh “Quay!” người đứng nghiêm, lấy gót chân trái làm trụ, mũi chân phải làm điểm đỡ, quay người sang trái một góc 90o, sau đó rút chân phải lên, trở về tư thế đứng nghiêm.
- Quay bên phải : Khi có lệnh “Bên phải – Quay!”, sau động lệnh “Quay!” người đứng nghiêm, lấy gót chân phải làm trụ, mũi chân trái làm điểm đỡ, quay người sang phải một góc 90o, sau đó rút chân trái lên, trở về tư thế đứng nghiêm.
- Quay đằng sau : Khi có lệnh “Đằng sau – Quay!”, sau động lệnh “Quay! ” lấy gót chân phải làm trụ, mũi chân trái làm điểm đỡ, quay người sang phải một góc 180o, sau đó trở về tư thế đứng nghiêm.
- Dậm chân tại chỗ : Khi có lệnh “Dậm chân – Dậm!”, sau động lệnh “Dậm!”, bắt đầu bằng chân trái, dậm theo nhịp hô hoặc còi, trống, nhưng không chuyển vị trí. Khi đặt chân xuống đất, mũi chân đặt trước rồi đến gót chân. Tay phải vung về phía trước, bàn tay cao ngang thắt lưng, tay trái vung thẳng về phía sau. Khi có lệnh “Đứng lại – Đứng!” (Động lệnh “Đứng!” rơi vào chân phải ), đội viên dậm chân thêm một nhịp, kéo chân phải về tư thế đứng nghiêm.
- Chạy tại chỗ : Khi có lệnh “Chạy tại chỗ – Chạy!”, sau động lệnh “Chạy!”, bắt đầu bằng chân trái, chạy đều theo nhịp còi hoặc lời hô, nhưng không chuyển vị trí, hai tay co tự nhiên, lòng bàn tay hướng vào thân người, bàn tay nắm, đánh nhẹ ở tư thế thoải mái và vung dọc theo hướng chạy. Khi có lệnh “Đứng lại – Đứng!” (Động lệnh “Đứng!” rơi vào chân phải), đội viên dậm chân thêm ba nhịp nữa. Dậm chân phải về tư thế đứng nghiêm.

- Tiến : Khi có lệnh : “Tiến . . . bước – Bước!”, sau động lệnh “Bước!” người đứng thẳng, mắt nhìn thẳng, bắt đầu bằng chân trái bước lên trước liên tục theo số bước người chỉ huy hô, khoảng cách bước chân bằng một bàn chân, bước xong trở về tư thế nghiêm.
- Lùi : Khi có lệnh : “Lùi . . . bước – Bước!”, sau động lệnh “Bước!”, người đứng thẳng, mắt nhìn thẳng, bắt đầu bằng chân trái bước liên tục về phía sau theo số bước người chỉ huy hô, khoảng cách bước chân bằng một bàn chân, bước xong trở về tư thế nghiêm.
- Bước sang trái : Khi có lệnh : “Sang trái . . . bước – Bước!”, sau động lệnh “Bước!”, người đứng thẳng, mắt nhìn thẳng, chân trái bước sang trái, (Chân phải bước theo kiểu sâu đo), cứ như vậy đến hết số bước người chỉ huy hô. Mỗi bước rộng bằng vai, bước xong, trở về tư thế nghiêm.
- Bước sang phải : Khi có lệnh : “Sang phải . . . bước – Bước!”, sau động lệnh “Bước!”, người đứng thẳng, mắt nhìn thẳng, chân phải bước sang phải, (Chân trái bước theo kiểu sâu đo), cứ như vậy đến hết số bước người chỉ huy hô. Mỗi bước rộng bằng vai, bước xong, trở về tư thế nghiêm.
- Đi đều : Khi có lệnh “Đi đều – Bước!”, sau động lệnh “Bước!”, bắt đầu bước bằng chân trái theo nhịp còi, trống hoặc lời hô, tay phải đánh ra trước thắt lưng, tay trái vung thẳng ra phía sau đưa dọc theo người, bàn tay nắm tự nhiên, bước đều đặn, người thẳng, mắt nhìn thẳng. Khi có lệnh “Đứng lại – Đứng!”, Động lệnh “Đứng!” rơi vào chân phải, chân trái bước thêm một bước, rồi đưa chân phải lên, trở về tư thế đứng nghiêm.
Đi đều khác dậm chân tại chỗ cơ bản ở bước chân di chuyển, đầu gối không nhấc cao, bước đi bình thường, gót chân xuống trước, mũi xuống sau, không đá hất chân về phía trước hoặc giật ra phía sau.
- Chạy đều : Khi có lệnh “Chạy đều – Chạy!”, sau động lệnh “Chạy! ”, bắt đầu chạy bằng chân trái theo nhịp còi hoặc lời hô, đầu gối không nhấc cao, không đá chân, hai cánh tay co tự nhiên, lòng bàn tay hướng vào thân người, bàn tay nắm, đánh nhẹ ở tư thế thoải mái và vung dọc theo hướng chạy, người hơi đổ về trước. Khi có lệnh “Đứng lại – Đứng!”, Động lệnh “Đứng!” rơi vào chân phải, đội viên chạy thêm 3 bước nữa rồi kéo chân phải về tư thế đứng nghiêm.
12.7-Đánh trống:
Mỗi đội viên phải biết 3 bài trống quy định.
13.Yêu cầu đối với chỉ huy đội.
13.1-Trang phục:
-Mặc đồng phục đội viên.
-Đeo cấp hiệu chỉ huy Đội.
13.2-Tư thế:
Nhanh nhẹn, nghiêm túc, chuẩn xác, dứt khoát.
13.3- Khẩu lệnh:
Khi hô phải rõ dự lệnh và động lệnh, hô to, rõ để cả đơn vị nghe thấy. Chỉ huy phải kiểm tra hiệu quả của hiệu lệnh. Khi đội viên chưa thực hiện xong, chưa chuyển sang khẩu lệnh khác.
13.4-Động tác, tư thế chỉ huy khi tập hợp: * Chọn địa hình: Cần chọn vị trí rộng để tập hợp đội hình và phù hợp với những hoạt động đã dự định, tránh nơi có vật trở ngại hoặc lầy lội. * Xác đinh phương hướng: Cần chú ý những yếu tố sau : tránh nắng chiếu vào mặt, tránh hướng gió, tránh ô nhiễm môi trường, tránh hướng có nhiều hoạt động ồn ào. * Vị trí và tư thế khi tập hợp: Khi tập hợp, chỉ huy đứng ở điểm chuẩn, tư thế nghiêm để các đơn vị lấy làm chuẩn, không xê dịch vị trí, quay qua, quay lại... * Động tác chỉ định đội hình: Chỉ huy dùng tay trái chỉ định đội hình tập hợp. - Hàng dọc: tay trái giơ thẳng lên cao, các ngón tay khép kín, lòng bàn tay hướng về phía thân người.
- Hàng ngang: tay trái giơ sang ngang tạo với thân người một góc 900, các ngón tay khép kín, lòng bàn tay úp xuống.
- Chữ U: Tay trái đưa ngang, cánh tay trên vuông góc với cánh tay dưới, bàn tay nắm kín, lòng bàn tay hướng về phía thân người.
- Vòng tròn: Hai tay vòng lên đầu, bàn tay mở, các ngón tay khép kín, lòng bàn tay úp xuống, ngón giữa hai bàn tay chạm nhau. * Chú ý: Khi giơ tay chỉ định đội hình tập hợp, hướng mặt của chỉ huy luôn cùng với hướng của đội hình. - Khi đội viên đầu tiên vào vị trí chuẩn của đội hình, chạm tay trái vào vai trái của chỉ huy, chỉ huy chuyển từ vị trí tập hợp sang vị trí điều khiển đơn vị. * Lệnh tập hợp: Phát lệnh tập hợp bằng còi, hoặc khẩu lệnh (không vừa dùng còi, vừa dùng khẩu lệnh). - Lệnh bằng còi: Được cấu tạo bằng độ dài của tiếng còi ghi theo kí hiệu moóc-xơ
+Kí hiệu: Dấu (.) (tích) là tiếng còi ngắn. Dấu (-) (tè) là tiếng còi dài. + Các kí hiệu moóc - xơ dùng khi tập hợp : (-) một hồi dài (chữ T) : Chuẩn bị chú ý. (.-) (chữ A) 4 lần : Tập hợp toàn đơn vị. (..) (chữ I) : nhiều lần : giục nhanh lên. (--.) (chữ G) : Dừng lại. (.--.) (chữ P) : Gọi phân đội trưởng. (-.-) (Chữ C) : Gọi chi đội trưởng. (.-.-) : Khi đi, khi chạy, tiếng ngắn rơi vào chân trái, tiếng dài rơi vào chân phải.* Các khẩu lệnh: - Chi đội (phân đội, liên đội) tập hợp! - Nghiêm! Nhìn trước - thẳng! Thôi! - Đội trống, đội cờ vào (về) vị trí! - Nghiêm! Chào cờ - chào! - Nghiêm! - Nghỉ! - Khẩu lệnh điểm số. + Phân đội điểm số! + Chi đội điểm số! + Các phân đội (chi đội ) điểm số - báo cáo! - Bên trái (phải, đằng sau) - quay! - Tiến (lùi, sang phải, sang trái) ...n... bước - bước!- Dậm chân - dậm!- Đi đều - bước!
- Chạy tại chỗ - chạy! - Chạy đều - chạy! - Đứng lại - đứng! - Vòng bên trái (bên phải) - bước! - Vòng bên trái (bên phải) - chạy! - Bên trái (bên phải) vòng đằng sau - bước! (chạy!) - Cự li rộng (hẹp), nhìn chuẩn thẳng! (đối với đội hình hàng dọc, ngang và chữ U). - Cự li rộng (hẹp), chỉnh đốn đội ngũ! ( đối với đội hình vòng tròn). * Vị trí của người chỉ huy trong đội hình, đội ngũ: - Vị trí chỉ huy tập hợp: Khi tập hợp, chỉ huy là chuẩn của đơn vị. Ở đội hình hàng dọc và chữ U, đội viên đứng sau chỉ huy có khoảng cách bằng một cánh tay (cánh tay trái đưa lên chạm vai trái chỉ huy) cùng hướng với chỉ huy. Ở đội hình hàng ngang, đội viên đứng tiếp bên trái chỉ huy có khoảng cách bằng một cánh tay (vai phải chạm ngón tay trái của chỉ huy) và cùng hướng với chỉ huy. Ở đội hình vòng tròn: Chỉ huy làm tâm. - Vị trí chỉ huy khi điều khiển đơn vị: Sau khi đội viên đầu tiên vào vị trí chuẩn của đội hình tập hợp, chỉ huy chuyển sang vị trí trung tâm để điều khiển và bao quát đơn vị, để các đội viên đều phải nghe thấy khẩu lệnh chỉ huy. Khoảng cách giữa chỉ huy đến đơn vị tuỳ thuộc đội hình đơn vị lớn hay nhỏ. - Vị trí chỉ huy đơn vị tĩnh tại: (Liên đội hàng ngang, chi đội hàng dọc). + Phân đội trưởng đứng đầu, phân đội phó đứng cuối phân đội; chi đội trưởng đứng bên phải phân đội trưởng phân đội 1 (các uỷ viên Ban chỉ huy đứng sau chi đội trưởng); đội viên cầm cờ đứng bên phải chi đội trưởng; phụ trách chi đội đứng bên phải cờ. Ban chỉ huy liên đội đứng bên phải phụ trách của chi đội 1; đội cờ liên đội đứng hàng ngang bên phải Ban chỉ huy liên đội (nếu đội cờ có 3 đội viên, thì 1 đội viên cầm cờ, 2 đội viên hộ cờ. Nếu đội cờ có 5 đội viên thì đứng giữa là cờ Tổ quốc, bên phải là cờ Đoàn, bên trái là cờ Đội; 2 hộ cờ hai bên). Đội trống, kèn đứng đằng sau đội cờ.
+ Đội hình của các chi đội khác đứng lần lượt bên trái chi đội 1, khoảng cách bằng 1 cự li rộng.
- Vị trí chỉ huy khi hành tiến của liên đội:
Đi đầu là đội cờ của liên đội, cách đội cờ khoảng 2 mét là Ban chỉ huy liên đội, sau Ban chỉ huy khoảng 3 mét là đội trống (đội trống có thể đứng cố định ở khu vực lễ đài, tùy thuộc vào hành trình diễu hành), sau đội trống khoảng 5 mét là người cầm cờ của chi đội, sau khoảng 1 mét là chi đội trưởng sau chi đội trưởng khoảng 1 m là đội hình chi đội chi đội nọ cách chi đội kia khoảng 5 mét.
14.Đội hình, đội ngũ:
14.1-Các loại đội hình:
14.1.1-Đội hình hàng dọc: Đội hình hàng dọc để tập hợp điểm số, báo cáo, khi hành tiến hoặc tổ chức các hoạt động.
- Phân đội hàng dọc: Phân đội trưởng đứng đầu, các đội viên thứ tự xếp hàng từ thấp đến cao, phân đội phó đứng cuối hàng.
- Chi đội hàng dọc: Các phân đội xếp hàng dọc, phân đội 1 làm chuẩn, các phân đội khác(theo thứ tự) đứng bên trái phân đội 1 (chi đội là đơn vị cơ sở, không nên coi đây là phân đội hàng dọc chi đội hàng ngang).
- Liên đội hàng dọc: Các chi đội xếp hàng dọc theo thứ tự trước sau do liên đội quy định, cách nhau khoảng 5 m.(sắp xếp khi diễu hành)
14.1.2- Đội hình hàng ngang: Đội hình hàng ngang được daùng khi tổ chức nghe nói chuyện, lễ dưyệt Đội, lễ chào cờ, tập hợp báo cáo toàn liên đội…
- Phân đội hàng ngang: Phân đội trưởng đứng đầu, đội viên lần lượt đứng về phái trái phân đội trưởng từ thấp đến cao, phân đội phó đứng cuối hàng.
- Chi đội hàng ngang: Phân đội 1 xếp hàng ngang trên cùng là chuẩn, các phân đội xếp hàng ngang theo thứ tự đứng sau phân đội 1.
- Liên đội hang ngang: Chi đội đứng đầu xếp hàng dọc làm chuẩn, các chi đội khác xếp hàng dọc lần lượt đứng về phía trái chi đội đứng đầu.
14.1.3- Đội hình chữ U: Đội hình chữ U được dùng khi tổ chức lễ chào cờ, lễ kết nập đội viên và một số hoạt động ngoài trời.
- Chi đội tập hợp chữ U; Phân đội 1 là một cạnh của chữ U, các phân đội giữa làm đáy(có thể một hàng ngang hoặc 1,3 hàng ngang), phân đội cuối làm cạnh kia của chữ U.
Khi nghe lệnh tập hợp, các đội viên chạy tại chỗ, sau đó lần lượt chạy về vị trí theo điểm rót của phân đội, đến nơi thì dừng lại, (phân đội trưởng phân đội 1 trạm tay trái vào vai trái chi đội trưởng), quay trái vào trong chữ U, về tư thế nghiêm.
14.1.4-Đội hình vòng tròn: Được sử dụng khi hoạt động tập thể như; múa, hát, tổ chức trò chơi, lửa trại, sinh hoạt nội bộ ngoài trời.Khi có lệnh tập hợp, các đội viên chạy đều tại chỗ, sau đó lần lượt chạy về vị trí tập hợp, theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, vừa chạy vừa điều chỉnh, khi chỉ huy bỏ tay xuống thì dừng lại và quay vào trong vòng tròn, về tư thế nghiêm.
14.2-Đội ngũ:
14.2.1-Đội ngũ tĩnh tại: * Chỉnh đốn đội ngũ: Sau khi tập hợp, cần phải chỉnh đốn đội ngũ để có một đơn vị sắp xếp ngay ngắn, nghiêm chỉnh, có cự li thích hợp để bắt đầu hoạt động. Cự li hẹp bằng một khuỷu tay trái, bàn tay trái chống ngang thắt lưng, 4 ngón đặt phía trước), cự li rộng bằng một cánh tay trái (nếu đưa sang ngang, lòng bàn tay úp; nếu đưa lên phía trước, lòng bàn tay vuông góc với mặt đất).
* Chỉnh đốn hàng dọc: - Phân đội: Khẩu lệnh "Nhìn trước - thẳng !". Nghe động lệnh "thẳng!", đội viên nhìn gáy người trước, tay trái giơ thẳng, lòng bàn tay vuông góc với mặt đất, các ngón tay khép kín và chạm vào vai trái người đứng trước (không đặt cả bàn tay, không kiễng chân). Khi nghe khẩu lệnh "thôi!", đội viên bỏ tay xuống, về tư thế nghiêm. - Chi đội: Khẩu lệnh "Cự li rộng (hẹp), nhìn chuẩn - thẳng!". Sau động lệnh "thẳng!", các phân đội trưởng (trừ phân đội cuối) dùng tay trái để xác định cự li giữa các phân đội (chỉnh đốn hàng ngang). Đội viên phân đội 1 dùng tay trái xác định cự li giữa các đội viên (chỉnh đốn hàng dọc). Các đội viên phân đội khác nhìn phân đội trưởng để chỉnh đốn hàng dọc, nhìn đội viên phân đội 1 cùng hàng ngang để chỉnh đốn hàng ngang. Khi nghe khẩu lệnh "thôi!", đội viên bỏ tay xuống, về tư thế nghiêm.* Chỉnh đốn hàng ngang:
- Phân đội: Khẩu lệnh "Cự li rộng (hẹp), nhìn chuẩn - thẳng!". Sau động lệnh "thẳng!", đội viên nhìn phân đội trưởng để chỉnh đốn hàng ngang, dùng tay trái để xác định cự li giữa các đội viên. Khi nghe khẩu lệnh "thôi!", đội viên bỏ tay xuống, về tư thế nghiêm. - Chi đội hàng ngang: Khẩu lệnh " Cự li rộng (hẹp), nhìn chuẩn - thẳng!". Sau động lệnh "thẳng!", các phân đội trưởng dùng tay trái xác định cự li hàng dọc, đội viên phân đội 1 dùng tay trái xác định cự li hàng ngang. Các đội viên phân đội khác nhìn phân đội trưởng của mình để chỉnh đốn hàng ngang, nhìn đội viên phân đội 1 để chỉnh đốn hàng dọc. Khi nghe khẩu lệnh "thôi!", đội viên bỏ tay xuống, về tư thế nghiêm.- Chi đội hình chữ U: Khẩu lệnh "Cự li rộng (hẹp), nhìn chuẩn - thẳng!”. Sau động lệnh "thẳng!" các đội viên nhìn phân đội trưởng để chỉnh đốn hàng ngang và dùng tay trái xác định cự li. Khi nghe khẩu lệnh "thôi!", đội viên bỏ tay xuống, về tư thế nghiêm. Riêng ở góc chữ U luôn luôn có khoảng cách là một cự li rộng được xác định bởi tay trái phân đội phó phân đội 1 đưa ngang (lòng bàn tay úp song song với mặt đất) chạm vai phải phân đội trưởng phân đội 2 và tay trái phân đội phó phân đội 2 (hoặc 3, 4, 5 ... nếu các phân đội đáy là một hàng) đưa ra phía trước (bàn tay nghiêng, vuông goác với mặt đất) chạm vai phải phân đội trưởng phân đội cuối.(nếu các phân đội giữa xếp thành nhiều hàng ngang thì các phân đội trưởng của phân đội 3,4,5..đứng sau phân đội trưởng phân đội 2).
* Đội hình vòng tròn: Khẩu lệnh "Cự li rộng (hẹp) chỉnh đốn đội ngũ!".
- Cự li hẹp được tạo nên do 2 đội viên đứng cạnh nhau, cánh tay tạo với thân người một góc khoảng 450.
- Cự li rộng được tạo nên do 2 đội viên đứng cạnh nhau nắm tay nhau, đứng thẳng cánh tay, vuông góc với thân người. Khi nghe khẩu lệnh "thôi!", đội viên bỏ tay xuống, về tư thế nghiêm.
* Điểm số, báo cáo: Trước buổi sinh hoạt Đội, các đơn vị điểm số, báo cáo sĩ số- Điểm số: + Điểm số phân đội: Phân đội trưởng tiến 1 bước, quay đằng sau, hô "Nghiêm! Phân đội điểm số!" và phân đội trưởng hô số "một", các đội viên đánh mặt sang trái hô số tiếp theo, lần lượt cho đến người cuối cùng điểm số xong hô: "hết". + Điểm số toàn chi đội: Sau khi nghe lệnh "Nghiêm! Các chi đội điểm số, báo cáo! Nghỉ", các chi đội trưởng đứng lên vị trí chỉ huy chi đội mình, hô: "Nghiêm! Chi đội điểm số!", phân đội trưởng phân đội 1 hô : "một", các đội viên phân đội 1 tiếp tục điểm số cho đến người cuối cùng. Người cuối cùng điểm số xong hô: "hết". Phân đội trưởng phân đội 2 hô số tiếp theo số của người cuối cùng phân đội 1, các đội viên phân đội 2 điểm số tiếp... Các phân đội còn lại lần lượt tiến hành như thế cho đến hết. Chi đội trưởng lấy số cuối cùng của chi đội cộng với Ban chỉ huy (nếu đứng hàng riêng) và đội viên ở đội cờ, đội trống rồi báo cáo với liên đội.- Báo cáo sĩ số: Điểm số xong các đơn vị lần lượt báo cáo chỉ huy:+ Ở chi đội: Phân đội 1 điểm số xong, phân đội trưởng cho phân đội đứng nghiêm, quay đằng sau, bước lên báo cáo chi đội trưởng. Khi phân đội trưởng phân đội 1 báo cáo, phân đội trưởng phân đội 2 bắt đầu cho phân đội mình điểm số và lần lượt như vậy đến phân đội cuối. + Ở liên đội: Các chi đội trưởng lần lượt từ chi đội 1 đến chi đội cuối báo cáo với chỉ huy liên đội. + Ở cuộc họp lớn, liên đội trưởng lên báo cáo tổng chỉ huy. - Thủ tục báo cáo: Sau khi điểm số xong, các đơn vị trưởng lần lượt hô đơn vị mình đứng nghiêm, rồi (chạy hoặc đi tuỳ theo cự li xa hoặc gần) đến trước chỉ huy, cách khoảng 3 bước nói to: "Báo cáo! (đơn vị trưởng giơ tay chào chỉ huy, chủ huy chào đáp lại, 2 người cùng bỏ tay xuống). Báo cáo chi đội trưởng (Liên đội trưởng, Tổng phụ trách ...) phân đội (chi đội, liên đội) có ... đội viên, có mặt .... , vắng mặt ...., có lí do....., không có lí do ...... Báo cáo hết!". Chỉ huy đáp lại…Đơn vị trưởng hô: “Rõ”, sau đó chào chỉ huy, chỉ huy chào đáp lại và cùng bỏ tay xuống. Đơn vị trưởng quay về trước đơn vị hô: "Nghỉ!" và trở về vị trí.14.2.2-Đội ngũ vận động * Đội ngũ đi đều: Toàn đơn vị phải bước cùng một nhịp, cùng đưa chân và cùng vung tay đều đặn. Hàng ngang, hàng dọc phải thẳng, đều. * Đội ngũ chạy đều: Toàn đơn vị chạy đều và nhịp nhàng theo lệnh của chỉ huy. * Đội ngũ chuyển hướng vòng - Vòng trái: Đơn vị đang đi đều (chạy đều) , sau khẩu lệnh: "Vòng bên phải - bước!" hoặc "Vòng bên trái - chạy!", những đội viên hàng bên trái (ngoài cùng) bước đến điểm quay (được xác định) bằng vị trí phân đội trưởng khi dứt động lệnh) thì bước (chạy) ngắn hơn, đồng thời quay sang trái. Những đội viên ở hàng bên phải khi đến điểm quay thì bước dài hơn, đồng thời quay bên trái. Sau đó đi (chạy) tiếp và giữ đúng cự li. - Vòng phải: Tiến hành ngược lại.
- Vòng đằng sau: Tiến hành như vòng trái (vòng phải) nhưng di chuyển đội hình quay ngược lại hướng đi ban đầu. Khẩu lệnh: “Bên trái (bên phải) vòng đằng sau bước! (chạy!)”.
15.Nghi lễ của Đội:
- Được sử dụng khi bắt đầu một buổi sinh hoạt, hoạt động Đội.Các liên đội trong trường học tổ chức lễ chào cờ đầu tuần.
*Diễn biến: (Sau khi đã tập hợp và ổn định đơn vị).
- Chỉ huy hô : "Mời các vị đại biểu và các bạn chuẩn bị làm lễ chào cờ!". - Chỉ huy hô: " Đội nghi lễ vào vị trí !" (đội cờ của liên đội vác cờ, đội trống đeo trống, đội kèn cầm kèn tay phải vào vị trí quy định với từng hình thức tổ chức, đến nơi, đưa cờ về tư thế nghỉ) - Chỉ huy hô: "Nghiêm!", đội kèn thổi kèn hiệu chào cờ. Hết hồi kèn, chỉ huy hô: "Chào cờ - chào!", dứt động lệnh “chào” chỉ huy hướng về phía cờ) cờ giương (hoặc kéo), đội trống đánh trống chào cờ, tất cả đội viên giơ tay chào.(hai đội viên hộ cờ đứng nghiêm, không giơ tay chào) - Dứt tiếng trống chỉ huy hô: "Quốc ca!", đội viên bỏ tay xuống, đứng tư thế nghiêm và hát Quốc ca.
-Hát xong Quốc ca chỉ huy hô: "Đội ca!", đội viên hát Đội ca.
-Hát xong Đội ca chỉ huy quay về đội hình hô: "Vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa - Vì lí tưởng của Bác Hồ vĩ đại - Sẵn sàng!", tất cả đội viên đồng thanh đáp 1 lần : "Sẵn sàng!" (không giơ tay) Kết thúc lễ chào cờ chỉ huy hô “Mời các vị đại biểu và các bạn nghỉ, đội nghi lễ về vị trí”
- Trong các buổi lễ lớn, có phút sinh hoạt truyền thống, sau lời đáp : "Sẵn sàng!", chỉ huy hô: "Phút sinh hoạt truyền thống!". Đội nghi lễ chủ động về vị trí tập hợp đội hình tĩnh tại. * Các hình thức tổ chức lễ chào cờ: Có 3 hình thức - Hình thức thứ nhất: Cờ được treo sẵn trên lễ đài hoặc trên cột cờ. + Diễn biến lễ chào cờ được tiến hành như quy định - Hình thức thứ hai: Cờ được đội viên cầm, đứng trước đơn vị. + Chào cờ ở chi đội: Cờ của chi đội do 1 đội viên cầm ở tư thế giương cờ (không có hộ cờ) đứng trước chi đội và quay mặt về đơn vị. Diễn biến lễ chào cờ như quy định. + Chào cờ ở liên đội: Đội cờ của liên đội bao gồm 1 đội viên hoặc 3 đội viên (nếu có cờ Tổ quốc và cờ Đoàn) cầm cờ và 2 đội viên hộ cờ (băng hộ cờ - nếu có - chỉ dùng cho đội cờ), đứng cách đội hình ít nhất 3 mét, đội trống đứng sau đội cờ, tất cả đều quay mặt về đơn vị. Cờ của chi đội do một đội viên cầm ở tư thế giương cờ, đứng trước đơn vị, cách 3 bước cùng hướng với đơn vị. Diễn biến lễ chào cờ như quy định. - Hình thức thứ ba: Kéo cờ. + Đội cờ về vị trí tập kết, bốn đội viên cầm 4 góc cờ. Khi có lệnh vào vị trí, dâng cờ lên ngang vai tiến vào cột cờ theo nhịp trống hành tiến. Đến cột cờ, 4 đội viên hạ cờ ngang thắt lưng, 2 đội viên đứng trước buộc cờ vào dây kéo, 2 đội viên đứng sau nâng cờ.+ Khi có khẩu lệnh chào cờ, một đội viên cầm một dây để kéo cờ lên, một đội viên cầm dây thả dần ra, 2 đội viên còn lại tiến lên thành hàng ngang với người kéo cờ và quay xuống đơn vị, đứng nghiêm, không giơ tay chào. + Khi cờ lên đến đỉnh cột, 2 đội viên kéo cờ buộc dây vào cột rồi quay xuống đơn vị, đứng nghiêm. Cờ được kéo lên khi trống nổi, hết bài trống cờ lên đến đỉnh cột. 15.2 Lễ diễu hành - Lễ diễu hành được tổ chức để biểu dương lực lượng, giới thiệu thành tích của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
* Đội hình diễu hành:Vị trí tập kết chuẩn bị diễu hành: đi đầu là đội cờ của liên đội, cách đội cờ khoảng 3 m là đội rước ảnh Bác Hồ (nếu có), sau khoảng 3 m là 3 đội viên đại diện Ban chỉ huy liên đội, sau Ban chỉ huy khoảng 3 m là đội trống (đội trống có thể đứng cố định ở khu vực lễ đài tuỳ thuộc vào hành trình diễu hành), sau đội trống khoảng 5 m là cờ của chi đội, sau cờ khoảng 1 m là chi đội trưởng, sau chi đội trưởng khoảng 1 m là đội hình chi đội, chi đội nọ cách chi đội kia khoảng 5 m.Phụ trách đi bên cạnh phân đội trưởng phân đội 1.
-Diễn biến: lễ diễu hành được thực hiện trước lễ khai mạc. Chỉ huy hô: "Nghiêm"!" rồi chạy đến trước lễ đài báo cáo: "Báo cáo anh (chị) phụ trách, các đơn vị đã sẵn sàng, xin phép lễ diễu hành được bắt đầu!". Phụ trách đáp: "Đồng ý!". Chỉ huy quay về đơn vị hô: "Lễ diễu hành bắt đầu!" - "Dậm chân - dậm!", thổi kèn, đánh trống hành tiến (đội viên dậm chân theo tiếng trống). Khi đơn vị đã dậm đều, chỉ huy hô: "Đi đều - bước!", các đơn vị hành tiến từ trái qua phải lễ đài (theo hướng lễ đài), cờ được vác lên vai. Khi bắt đầu đến lễ đài (vạch chào), cờ được giương lên, đội viên giơ tay chào. Khi đã qua lễ đài (vạch thôi chào), chuyển cờ về tư thế vác cờ, đội viên thôi chào, tiếp tục đi đều. Từng đơn vị khi qua lễ đài được giới thiệu tóm tắt thành tích, các đại biểu vỗ tay động viên. Khi vòng ở các góc sân, chú ý đảm bảo vuông góc. Khi diễu hành ở đường lớn, chú ý giữ cự li các đơn vị, đội hình nghiêm túc và đi đúng đường, tránh làm mất trật tự an toàn giao thông. Diễu hành xong, các đơn vị về vị trí tập kết.
15.3- Lễ duyệt Đội- Diễn biến: Sau Lễ khai mạc, chỉ huy đến lễ đài báo cáo đại biểu (Đại diện đại biểu)" Báo cáo ..., các đơn vị đã sẵn sàng, xin mời đại biểu đi duyệt Đội!". Đại diện đại biểu đáp: "Đồng ý!". Chỉ huy quay về đội hình hô: "Lễ duyệt Đội bắt đầu!" và hướng dẫn đại biểu đến trước vị trí đội cờ (đứng theo đội ngũ tĩnh tại), đại biểu giơ tay chào cờ rồi đi duyệt Đội.(Trong quá trình đi duyệt đội , đại biểu không giơ tay chào). + Khi đại biểu vào vị trí duyệt Đội (trước đội hình chi đội đầu tiên của đơn vị), chỉ huy đi sau đại biểu khoảng 1 mét, chếch về bên phải), thổi kèn, đánh trống hành tiến, đại biểu đi từ đầu đến cuối đơn vị. Khi kèn và trống nổi, cờ của liên đội giương cao, chỉ huy chào (đến khi đại biểu đi hết đơn vị cuối cùng). Khi đại biểu đi đến đơn vị nào, chỉ huy đơn vị đó hô : "Chào !", cờ của chi đội giương cao, đội viên giơ tay chào. Khi đại biểu đi qua, chỉ huy đơn vị đó hô : "Thôi!", đội viên thôi chào, cờ về tư thế nghiêm. Đi hết đơn vị cuối, đại biểu lên lễ đài. Lễ duyệt Đội kết thúc.15.4-Lễ kết nạp đội viên - Sau khi đủ điều kiện kết nạp đội viên được quy định tại Điều 1, Chương I, Điều lệ Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, chi đội tổ chức Lễ kết nạp đội viên mới như sau: - Tổ chức lễ kết nạp một cách trọng thể, gây ấn tượng giáo dục sâu sắc. + Địa điểm kết nạp: Phòng Đội, Phòng truyền thống, nhà bảo tàng, di tích lịch sử... + Thời gian: Chọn ngày lễ có ý nghĩa. + Thành phần tham dự: Toàn chi đội, Tổng phụ trách, phụ trách chi, đại diện chi hội cha mẹ học sinh, đại diện ban chỉ huy liên đội và đội viên được kết nạp. + Trang trí: Có ảnh Bác Hồ, cờ Đội.* Diễn biến- Chi đội trưởng hoặc phó điều khiển chào cờ, tuyên bố lí do, giới thiệu đại biểu, công bố danh sách đội viên được kết nạp và mời đội viên mới lên đọc lời hứa. - Đội viên mới bước lên đối diện với cờ, nghiêm trang đọc lời hứa (Điều 2, chương I, Điều lệ Đội). Đọc xong hô : " Xin hứa!", toàn chi đội đứng nghiêm. - Phụ trách chi đội đặt khăn quàng đỏ lên vai và căn dặn đội viên mới. Đội viên mới đáp: "Sẵn sàng!" và tự thắt khăn quàng đỏ, đứng nghiêm, chào cờ và quay lại chào các đại biểu và đội viên trong chi đội.- Chi đội trưởng phân công đội viên mới về phân đội. Toàn chi đội ngồi xuống và hát tập thể bài hát "Mơ ước ngày mai" (Trần Đức). Lễ kết nạp kết thúc. *Chú ý : Mỗi lẫn kết nạp không quá 15 đội viên. Nếu có từ 2 em trở lên thì một em đọc lời hứa xong, các em khác đồng thanh đáp một lần :"Xin hứa!". 15.5- Lễ công nhận chi đội * Điều kiện thành lập chi đội mới - Có ít nhất 3 đội viên trở lên.- Việc thành lập và tổ chức công nhận: Do ban chỉ huy liên đội đề nghị và Hội đồng Đội cấp xã, phường hoặc Ban Chấp hành Đoàn cùng cấp ra quyết định. * Thành phần tham dự: Chi đội được công nhận, đại diện chi đội đỡ đầu, Ban Chỉ huy liên đội, Tổng phụ trách, phụ trách chi, đại diện Ban giám hiệu, đại diện Hội đồng Đội cấp xã, phường hoặc Ban chấp hành Đoàn cùng cấp. * Diễn biến:- Đại diện Ban Chỉ huy liên đội điều khiển chào cờ, tuyên bố lí do, giới thiệu đại biểu. - Phụ trách Đội đọc quyết định công nhận chi đội mới.- Phụ trách Đội gắn cấp hiệu cho Ban Chỉ huy chi đội mới. - Tổng phụ trách trao cờ Đội cho chi đội trưởng (toàn chi đội mới đứng nghiêm). Ban Chỉ huy chi đội nhận cờ, giương cờ về phía chi đội. Đại diện Ban Chỉ huy liên đội hô: "Nghiêm ! Chào cờ - chào !", đội viên giơ tay chào (không hát, không hô khẩu lệnh). Sau đó hô: "Thôi!" - Đại biểu phát biểu, giao nhiệm vụ.
- Đại diện Ban Chỉ huy liên đội tuyên bố bế mạc.15.6- Lễ trưởng thành: Được tổ chức vào học kỳ II năm học lớp 9. Đơn vị tổ chức là chi đội có đội viên trưởng thành.* Thành phần tham dự: Toàn chi đội, phụ trách chi, đại diện Ban Chỉ huy liên đội, chi đoàn. Số lượng đội viên được trưởng thành không hạn chế.* Thời gian: Chọn ngày có ý nghĩa, thời gian tổ chức ngắn gọn.
* Diễn biến: - Chi đội phó điều khiển chào cờ, tuyên bố lí do, giới thiệu đại biểu - Chi đội trưởng công bố danh sách đề nghị của tập thể chi đội những đội viên trưởng thành. - Phụ trách chi phát biểu, biểu dương, nhắc nhở các em tiếp tục rèn luyện, phấn đấu để sớm trở thành đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đồng thời giúp đỡ chi đội trong mọi hoạt động. - Đội viên được trưởng thành phát biểu cảm tưởng. - Đại diện chi đoàn phát biểu. - Trao tặng phẩm kỉ niệm (nếu có) và vui liên hoan một số tiết mục văn nghệ (có thể làm một công trình lưu niệm nhỏ). - Bế mạc, hát bài: "Tiến lên đoàn viên " (Phạm Tuyên).
15.7-Đại hội Đội * Thời gian: Tổ chức Đại hội vào thời gian đầu năm học (với các chi đội, liên đội trong nhà trường) và đầu kỳ nghỉ hè (với các chi đội, liên đội ở địa bàn dân cư). Đại hội diễn ra không quá 2 giờ. * Địa điểm: Có thể ở Hội trường, trong lớp học, phòng truyền thống, nơi có ý nghĩa. * Trang trí: Quốc kì, cờ Đội hoặc huy hiệu Đội, ảnh Bác Hồ hoặc tượng Bác (cờ đội có thể do đội viên cầm khi chào cờ theo nghi thức Đội). * Nội dung và chương trình Đại hội: -Đồi với chi đội:
- Tập hợp chi đội - kiểm tra số lượng, tư thế, trang phục của đội viên. - Khai mạc Đại hội + Chào cờ (theo nghi thức Đội) + Tuyên bố lí do, giới thiệu đại biểu, công bố số lượng đội viện dự Đại hội. + Bầu chủ tịch đoàn (3-5 đội viên), chủ tịch đoàn giới thiệu thư kí Đại hội (1-2 đội viên). Ban Chỉ huy chi đội có thể dự kiến chủ tịch đoàn để Đại hội biểu quyết. + Chủ tịch đoàn lên làm việc, công bố chương trình và nội dung Đại hội. + Đọc báo cáo tổng kết công tác của chi đội trong nhiệm kì qua và dự thảo chương trình công tác nhiệm kì mới (Đối với chi đội mới thành lập chỉ trình bày dự thảo chương trình công tác nhiệm kì tới). + Phụ trách chi đội (hoặc đại diện phát biểu) phát biểu ý kiến. + Tiến hành thảo luận và biểu quyết những đánh giá trong báo cáo tổng kết và những chỉ tiêu cụ thể trong dự thảo đề án công tác nhiệm kì mới. + Biểu quyết thông qua báo cáo và chương trình hành động của chi đội... + Bầu Ban Chỉ huy chi đội và bầu đại biểu đi dự Đại hội liên đội: + Chủ tịch đoàn công bố Ban Chỉ huy chi đội cũ hết nhiệm kì, nêu tiêu chuẩn, cơ cấu và số lượng được bầu vào ban Chỉ huy mới. + Biểu quyết thống nhất số lượng bầu Ban chỉ huy đội (từ 3 - 7 đội viên). + Ứng cử đội viên nào trong danh sách ứng cử và đề cử xin rút tên thì nêu rõ lí do, chủ tịch đoàn sẽ hội ý và quyết định có cho đội viên đó rút tên hay không. + Biểu quyết chốt danh sách bầu cử. + Biểu quyết chọn hình thức bầu cử (có thể là giơ tay hoặc bỏ phiếu kín). + Nếu Đại hội quyết định bầu cử bằng hình thức bỏ phiếu kín thì bầu Ban kiểm phiếu. + Thống nhất số lượng, danh sách và bầu Ban kiểm phiếu (bằng hình thức giơ tay). + Ban kiểm phiếu làm việc: Ban kiểm phiếu công bố nguyên tắc, thể lệ bầu cử, kiểm tra phiếu, phát phiếu bầu cử, kiểm tra hòm phiếu, hướng dẫn bỏ phiếu và tiến hành bỏ phiếu (phiếu hợp lệ là phiếu bầu đúng tên người trong danh sách bầu cử, không thừa so với số lượng quy định, không để phiếu trắng. Người trúng cử phải được trên 1/2 tổng số phiếu bầu hợp lệ và theo thứ tự từ cao xuống (có thể bầu trực tiếp chi đội trưởng và các chi đội phó). - Đại hội giải lao và sinh hoạt văn nghệ (khi Ban kiểm phiếu làm việc). - Ban kiểm phiếu làm việc ngay và công bố kết quả bầu cử trước Đại hội. + Nếu bầu lần 1 chưa đủ số lượng, Đại hội tiến hành bầu cử lần 2 trong số những đội viên không trúng cử ở lần 1. Nếu bầu lần 2 vẫn chưa đủ thì đoàn chủ tịch xin ý kiến Đại hội để bầu tiếp hoặc sẽ bầu bổ sung trong các kì họp sau. + Nếu bầu bằng hình thức giơ tay biểu quyết thì chủ tịch đoàn điều khiển, đội viên giơ tay biểu quyết từng người một theo thứ tự: + Đồng ý + Không đồng ý. Thư kí đếm số lượng, ghi biên bản và công bố kết quả. + Ban Chỉ huy chi đội mới ra mắt Đại hội, đại diện Hội đồng Đội xã, phường, Tổng phụ trách hoặc phụ trách chi đội công nhận Ban Chỉ huy chi đội mới và giao nhiệm vụ. + Đại diện Ban Chỉ huy chi đội mới phát biểu nhận nhiệm vụ. + Nếu phải bầu đại biểu đi dự Đại hội liên đội thì bầu tiếp như trình tự bầu Ban Chỉ huy Đội. + Thư kí trình bày dự thảo nghị quyết Đại hội: Đại hội biểu quyết thông qua nghị quyết. - Tổng kết Đại hội. Chủ tịch đoàn đánh giá kết quả Đại hội, cảm ơn các đại biểu và tuyên bố bế mạc. - Chào cờ bế mạc. - Đối với liên đội : Đại hội liên đội tiến hành khi các chi đội đã tổ chức xong Đại hội. Đại hội toàn thể đội viên hoặc Đại hội đại biểu do Ban Chỉ huy liên đội quyết định. Thời gian Đại hội không quá một buổi. Đại hội báo cáo kết quả công tác của liên đội nhiệm kì qua, thông qua chương trình hành động nhiệm kì tới và bầu Ban Chỉ huy mới. *Nội dung và chương trình đại hội - Lễ khai mạc Đại hội: + Chào cờ theo nghi thức Đội (có sinh hoạt truyền thống). + Tuyên bố lí do, giới thiệu đại biểu mời, số lượng đại biểu chính thức dự Đại hội và khai mạc Đại hội. + Bầu đoàn chủ tịch (từ 5 đến 7 đội viên) và đoàn chủ tịch giới thiệu thư kí của Đại hội (2 đội viên) + Đoàn chủ tịch Đại hội lên làm việc, công bố chương trình và nội dung làm việc của Đại hội. + Đoàn chủ tịch trình bày dự thảo báo cáo kết quả công tác của nhiệm kí qua và chương trình hoạt động của liên đội trong nhiệm kì mới. + Đại diện Hội đồng Đội và cấp uỷ Đảng (Ban giám hiệu) phát biểu ý kiến. + Các đại biểu dự Đại hội thảo luận. + Biểu quyết thông qua báo cáo và chương trình hành động của liên đội. + Bầu ban chỉ huy liên đội mới: - Đoàn chủ tịch công bố Ban Chỉ huy cũ hết nhiệm kì, nêu tiêu chuẩn, cơ cấu và số lượng được bầu vào Ban Chỉ huy mới. - Thảo luận và quyết định cơ cấu, số lượng Ban chỉ huy mới. - Ứng cử, đề cử: Nếu đội viên nào trong danh sách ứng cử và đề cử xin rút tên thì nêu rõ lí do, đoàn chủ tịch sẽ hội ý và quyết định có cho đội viên đó rút tên hay không. + Biểu quyết chốt danh sách bầu cử. + Thống nhất số lượng, danh sách và bầu Ban kiểm phiếu (bằng hình thức giơ tay). + Ban kiểm phiếu làm việc: Ban kiểm phiếu công bố nguyên tắc, thể lệ bầu cử, kiểm tra hòm phiếu, phát phiếu bầu cử, hướng dẫn bỏ phiếu và tiến hành bỏ phiếu (phiếu hợp lệ là phiếu bầu đúng tên người trong danh sách bầu cử, không thừa so với số lượng quy định, không để phiếu trắng. Người trúng cử phải được trên 1/2 tổng số phiếu bầu hợp lệ và theo thứ tự từ cao xuống (có thể bầu trực tiếp chi đội trưởng và các chi đội phó). + Đại hội giải lao và sinh hoạt văn nghệ (khi Ban kiểm phiếu làm việc). + Ban kiểm phiếu làm việc ngay và công bố kết quả bầu cử trước Đại hội. + Nếu bầu lần 1 chưa đủ số lượng, Đại hội tiến hành bầu cử lần 2 trong số những đội viên không trúng cử ở lần 1. Nếu bầu lần 2 vẫn chưa đủ thì đoàn chủ tịch xin ý kiến Đại hội để bầu tiếp hoặc sẽ bầu bổ sung trong các kì họp sau. + Ban Chỉ huy liên đội mới ra mắt Đại hội. + Tổng phụ trách công nhận và giao nhiệm vụ cho Ban Chỉ huy mới... + Đại diện Ban Chỉ huy liên đội phát biểu nhận nhiệm vụ. +Thư kí trình bày dự thảo nghị quyết Đại hội. + Đại hội biểu quyết thông qua nghị quyết Đại hội. + Đoàn chủ tịch đánh giá kết quả Đại hội, cảm ơn các đại biểu, tuyên bố bế mạc. + Chào cờ, bế mạc.
15.8-Đại hội cháu ngoan Bác Hồ ở cơ sở.
* Mục đích ý nghĩa:
Tổ chức Đại hội cháu ngoan Bác Hồ sau một năn học tập, tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu đối với các em đội viên và tập the73 đội là việc làm cò ý nghĩa, tác dụng rát lớn:
+Là cuộc liên hoan, biểu dương thành tích của tập thể, cá nhân thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy.
+Là nơi trao đổi, học hỏi những kinh nghiệm tiên tiến, gặp mặt những người tốt, việc tốt,
+Là dịp tuyên truyền, tạo dư luận xã hội về những hoạt động và phong trào của Đội, tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của tổ chức xã hội.
*Thời gian và công việc chuẩn bị cho Đại hội.
Tiến hành Đại hội cháu ngoan Bác Hồ vào thời gian cuồi năm học.
+Đại hội phải dược tiến hành từ chi đội. Thành viên đại hội phải do các em bình xét và đề nghị đạt danh hiệu “Chàu ngoan Bác Hồ”.
+Hình thức tổ chức Đại hội phải nghiêm trang, vui vẻ, thật sự là ngày hội bào công “Người tốt việc tốt” dâng lên Bác Hồ. Các hiện vật, con người phải thật sự điển hình, có sức thuyết phục cao với các em thiếu nhi.
*Kết cấu nội dung
+Phải đảm bảo trình tự hợp lý, logic.
+Nội dung phù hợp với đối tượng.
+Thể hiện sử quan tâm của Đảng và cơ quan địa phương.
+Đáp ứng thiết thực nhu cầu, nguyện vọng của các em.
*Diễn biến của Đại hội
Ổn định tổ chức sau khi đi viếng nghĩa trang liệt sỹ hoặc tổ chức một hoạt động xã hội trước Đại hội.
+Tổ chức lễ chào cờ theo nghi thức Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh./
+Lễ dâng hoa lên Bác Hồ (cả Đại hội đứng nghiêm)
+Pháut sinh hoạt truyền thống (hoặc hoạt cảnh truyền thống) nếu có.
+Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu.
+Các tổ chức xã hội đến chào mừng (có các hình thức khác nhau để gây ấn tượng cho đại biểu).
+Báo công dâng Bác (bằng hình thức như hoạt cảnh, múa…).
+Tuyên dương, khen thưởng (chú ý nghiêm túc,trang trọng với những hình thức phù hợp với thiếu nhi).
+Đại biểu phát biểu động viên, tuyên dương.
+Đọc quyết tâm thư của Đại hội
+Bế mạc Đại hội.
15.9-Lễ thành lập liên đội tạm thời:
Lễ thành lập liên đội tạm thời được tổ chức trước các hoạt động tập trung của Đội, như hội trại, trại hè, lớp tập huấn, …khi cần thiết.
*Diễn biến buổi lễ:
-Ổn định tổ chức.
-Công bố quyết định thành lập liên đội, các chi đội và chỉ định Ban chỉ huy liên đội tạm thời.(Quyết định do Thường trực Hội đồng đội hoặc do Ban chấp hành đoàn cùng cấp ký).
-Khi đọc đến tên thành viên nào trong Ban chỉ huy liên đội thì thành viên đó hô: “có” rồi chạy lên trước đội hình, quay mặt về phía đơn vị.
-Mời đại diện lãnh đạo lên trao cấp hiệu cho Ban chỉ huy liên đội. Trước khi gắn cấp hiệu (dưới cầu vai trái 5 cm), lãnh đạo và các thành viên Ban chấp hành được gắn cấp hiệu chào nhau kiểu đội viên.
-Sau khi trao xong cấp hiệu cho Ban Chấp hành liên đội, người điều hành hô: “Xin mời đại biểu và các bạn đứng dậy (nếu đơn vị đang ngồi), xin kính mời…trao cờ cho liên đội”
-Liên đội trưởng bước lên phía trước một bước, lãnh đạo nhận cờ do đại diện Ban tổ chức trao và trao cho liên đội trưởng. Toàn liên đội đứng nghiêm.
-Trước khi nhận và sau khi trao cờ, người trao và nhận chào cờ.
-Lãnh đạo trao cờ xong, người điều hành hô: “Toàn liên đội nghiêm! Cháo thôi - lễ thành lập liên đội tạm thời tại…đến đây kết thúc, xin mời các vị đại biểu và các bạn nghỉ, mời Ban chỉ huy liên đội về vị trí”.
Chú ý; Liên đội tạm thời tự giải thể khi kết thúc hoạt động.
16. Nghi thức dành cho phụ trách:
Người phụ trách đội nhất thiết phải biết thành thạo Nghi thức Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh để ướng dẫn cho đội viên thực hiện đúng.
17. Việc chấp hành Nghi thức Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh:
Đội viên, chi đội, liên đội phụ trách đội và Hội đồng Đội các cấp có trách nhiệm thực hiện đúng Nghi thức Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.
Trong quá trình thực hiện, những quy định về Nghi thức Đội có gì chưa hợp lý, đội viên và các tập thể đội báo cáo cho H9ội đồng Đội cấp trên biết để nghiên cứu, chuẩn bị cho việc sửa đổi sau này.
Chỉ Hội đồng Đội Trung ương Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là cấp có thẩm quyền quyết định việc bổ sung, sửa đổi, ban hành Nghi thức của Đội thiếu nịên tiền phong Hồ Chí Minh trên cơ sở nghiên cứu đầy đủ ý kiến chính đáng của đội viên, cac tập thể đội và Hội đồng Đội các cấp.

KỊCH BẢN TRÒ CHƠI LỚN

Kịch bản Trò chơi lớn.
KỊCH BẢN
“RẠNG NGỜI TRANG SỬ ĐỘI”
TRẠI “SÁNG NIỀM TIN” – HỘI ĐỒNG ĐỘI TPHCM – NĂM 1996
- Thời gian: dự kiến diễn ra trong 1giờ 30 phút
- Địa điểm: Công viên Lê Văn Tám.
- Số lượng: 16 đội chia làm 4 cụm (mỗi đội 20 bạn) .
- Chạy trạm: theo hình thức xoay vòng
- Vật dụng chơi: Ban tổ chức chuẩn bị bao nilon, nước, dây dù, dây nilon, lon sữa bò, dây thun, bản đồ, dây thừng, thang tre. Mỗi đội chuẩn bị nón tai bèo, khăn quàng…
TRẠM TRUNG TÂM “TRUYỀN THỐNG ĐỘI TA”:
* Địa điểm: Tượng đài Lê Văn Tám.
* Mật thư đến trạm: sử dụng giấy A4 vẽ thành bản đồ 4 hướng di chuyển cho 4 cụm. Sử dụng tín hiệu morse để phát lệnh.
* Nội dung: - Tập trung điểm số báo cáo - Phổ biến quy định và phát bản đồ.- Phát lệnh về các trạm.
TRẠM 1: KIM ĐỒNG
* Địa điểm: gần cổng đường Điện Biên Phủ.
* Mật thư đến trạm: bản đồ.
* Nội dung:
- Trò chơi “Anh Kim Đồng vượt suối” (15 điểm)
Thể lệ: Mỗi đội cử 10 bạn xếp hàng một rồi lần lượt bạn thứ 1 đi trên những viên gạch để sẵn, trên tay cầm 1 cần câu trúc. Đến vị trí cuối cùng bạn đó sẽ dùng cần câu sao cho móc câu nhấc được lon từ vị trí A sang B (tượng trưng cho việc câu cá), sau đó quay về đưa cần cho người thứ 2 lên nhấc lon từ B sang A và cho đến người cuối cùng. Cách chấm điểm căn cứ thành tích đội nào có thời gian ít nhất tính điểm cao nhất.
- Trò chơi “Truyền tin trong đêm” (15 điểm)Thể lệ: Mỗi đội cử 8 bạn thành hàng một ngậm mẩu giấy có ghi 1 câu hỏi về truyền thống Đội và vượt qua các chướng ngại sao cho không rơi tờ giấy. Trong quá trình di chuyển các bạn không được chạm tay vào tờ giấy. Khi đến người cuối cùng thì sẽ trả lời được câu hỏi trên là đạt điểm tối đa.
- Trò chơi “Bí mật ở đâu?” (5 điểm)Thể lệ: Mật thư được Ban tổ chức viết đằng sau 2 bức tranh ghép hình, các bạn phải ghép được bức tranh và sau đó mới giải mã bản văn. Đội nào giải được toàn văn mật thư xem như thắng cuộc.
- Kỷ luật (5 điểm)
TRẠM 2: LÊ VĂN TÁM
* Địa điểm: Gần cổng Võ Thị Sáu.
* Mật thư chạy trạm: bản đồ
* Nội dung:
- Trò chơi “Hành quân lên Tây Bắc” (10 điểm)
Thể lệ: Mỗi đội cử 12 bạn sẽ chia làm 4 nhóm, mỗi nhóm 3 bạn, 2 bạn làm kiệu cùng đưa quân qua các vật cản của Ban tổ chức để đến nơi an toàn để vào trò chơi “Giải phóng Điện Biên”.
- Trò chơi “Giải phóng Điện Biên” (10 điểm)
Thể lệ: Mỗi đội cho 12 bạn lần lượt tiến vào các vị trí có đặt cờ tượng trưng cho các cứ điểm của địch và lấy các lá cờ.
Ban tổ chức sẽ bố trí hệ thống pháo kích (bịch nilon nước) và bắn súng nước. Chiến sĩ tuy bị thương nhưng vẫn tiếp tục chơi để leo lên vị trí cao nhất là chiến thắng.
Tính điểm dựa trên sự nhiệt tình là chính.
- Trò chơi “Hình tượng người anh hùng” (15 điểm)
Thể lệ: 8 bạn còn lại dùng các vật dụng của đội mình như khăn quàng đỏ, cờ vải… và các vật dụng thiên nhiên để dựng hình tượng những anh hùng như: Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám, Kim Đồng…
- Kỷ luật ( 5 điểm)
TRẠM 3: K’PA KƠ-LƠNG
* Địa điểm : Gần ngã tư Võ Thị Sáu và Hai Bà Trưng.
* Mật thư chạy trạm : bản đồ.
* Nội dung :- Trò chơi “Hành quân vượt Trường Sơn” (20 điểm)
Thể lệ: Mỗi đội cử 10 bạn lần lượt từng người vượt qua những chướng ngại vật như: “Qua sông” (đi trên sơi dây thừng căng giữa 2 thân cây lớn, độ cao 0m8 và có người bảo vệ), “Xe ta xuyên rừng” (dùng thang tre chơi như trò cỗ xe La Mã), “Xuyên rừng” (chui lượn qua những ô của thang tre). Tính thời gian để tính điểm cho từng đội. - Trò chơi “Tiếng hát giữa núi rừng” (15 điểm)
Thể lệ: Mỗi đội cử 10 bạn ngồi thành vòng tròn, người sau viết bài hát thứ 1 trên lưng người trước. Cùng lúc các đội phải hát một bài hát thứ 2.
10 bạn sẽ viết 10 bài hát khác nhau. Tính điểm theo độ chính xác của bài hát.
- Kỷ luật ( 5 điểm)
TRẠM 4: LÀ MĂNG NON THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
* Địa điểm: Gần ngã tư Hai Bà Trưng – Điện Biên Phủ.
* Mật thư chạy trạm: bản đồ.
* Nội dung:
- Trò chơi “Ngợi ca Thành phố Bác Hồ” (20 điểm)
- Các đội cử 3 bạn làm 1 bài thơ về chủ đề trại, về Bác Hồ, về tương lai của chúng ta…
- 17 bạn sẽ múa tập thể và sinh hoạt vòng tròn, cử 1 vài bạn ra chơi trong 5 phút.
- Trò chơi “Đội em làm kế hoạch nhỏ” (15 điểm)
Thể lệ: Mỗi đội cử 10 bạn cõng 10 bạn còn lại trên lưng và đi nhặt các quả bóng nằm rải rác trong khu vực quy định. Sau thời gian cho phép chấm điểm theo thành tích mỗi đội.
* Kết thúc 4 trạm các đội về và tính điểm bằng cách cộng điểm 4 trạm lại.
NGUY HIỂM TỪ ĐỘNG VẬT
Khác với thực vật có rất nhiều cây trái mang theo vô số chất độc trong mình. Ít động vật có chất độc khi làm thực phẩm, trừ một vài loại mà chúng ta dễ dàng nhận dạng. Nhưng chúng lại thường chủ động gây hại cho chúng ta, từ loài mãnh thú to lớn tấn công gây thương vong đến các loài có nọc độc gây đau đớn chết chóc hoặc các côn trùng mang theo những mầm bệnh nguy hiểm khôn lường. Vì thế chúng ta cần phải biết một số biện pháp đề phòng cũng như đối phó với chúng.
CÁC LOÀI MÃNH THÚ
Ngày nay, nhiều loài mãnh thú đã gần như tuyệt chủng trên hành tinh của chúng ta, nếu còn thì số lượng không đáng kể, tuy nhiên thỉnh thoảng qua các thông tin, chúng ta vẫn còn nghe một số người bị mãnh thú tấn công và thường là tử vong hoặc mang thương tích trầm trọng... Nhưng thường thì chúng không chủ động tấn công chúng ta, trừ trường hợp đang giữ con hoặc bị khiêu khích phải tự vệ, hay quá đói.
Khi bắt buộc phải đối diện với mãnh thú, điều cốt yếu là bạn đừng bao giờ bỏ chạy, vì tốc độ của bạn khó lòng mà thắng được các loại thú rừng, cho dù đó chỉ là con sói con tầm thường... và khi bỏ chạy, chính các bạn đã kích thích tập tính săn bắt hung hãn của các loài thú. Hãy bình tĩnh đối diện với chúng trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và nhìn trừng trừng vào chúng bằng một cặp mắt rực lửa cho đến lúc chúng bỏ đi
Nếu bị tấn công, cho dù đó là cọp, beo, sư tử, gấu, heo rừng, chó sói... thì con đường sống sót duy nhất của các bạn là chiến đấu và phải chủ động tấn công quyết liệt, dùng bất kỳ vật gì có thể làm vũ khí (cành cây, cục đá...) và cả nắm đấm của các bạn, nhắm thẳng vào tim và yết hầu, nhưng hãy lưu ý là loại vũ khí này, nếu chỉ làm chúng bị thương thì chúng sẽ trở nên hung hãn hơn. Khi chiến đấu quyết liệt, có thể các bạn sẽ bị một số thương tích, nhưng cũng còn hơn là là phải chết.
Đề phòng thú dữ tấn công:
Ở những nơi hoang dã, thú rừng thường bị hấp dẫn bởi mùi thức ăn của chúng ta nấu nướng (ở Châu Mỹ, gấu và một số lớn loài thú được bảo vệ nên chúng rất đông đúc và thường lùng sục thức ăn của những người đi cắm trại và đôi khi tấn công họ). Cho nên các bạn không nên nấu nướng, ăn uống gần lều và trên gió. Thực phẩm tồn trữ và dụng cụ nấu nướng, chén dĩa, áo quần dính thức ăn (nhất là cá)... phải được treo cao ở xa lều, dưới gió. Nếu cơ thể của bạn dính mùi cá, thì nên tắm rửa thật sạch. Ban đêm, các bạn nên đốt một đống lửa gần nơi bạn ngủ và giữ cho lửa cháy thành ngọn liên tục.
Khi cần di chuyển, các bạn nên mang theo lao hay gậy nhọn làm vũ khí, một tay cầm một cây roi mảnh quất vút vút trong không khí để gây ra những tiếng rít xé gió làm cho thú hoảng sợ. Cẩn thận khi di chuyển ở rừng thưa, trảng cỏ, bìa rừng, đường mòn, dọc theo sông suối, nơi lấy nước...
LOÀI BÒ SÁT
Rắn và Đẻn:Loài bò sát này rất nguy hiểm, vì chúng hiện diện khắp nơi và khó nhận thấy. Chúng lại có nọc độc rất dễ sợ, có thể gây chết người trong một thời gian ngắn. Ngày nay, rắn là một nguy cơ rất lớn cho những người sinh sống trong vùng hoang dã.Thật ra trong gần 2.400 loại rắn có mặt trên trái đất, chỉ có 1/6 loài là có nọc độc, và cũng chỉ có một ít trong số đó là có nọc đủ mạnh để gây chết người. Tiêu biểu cho loại này có: hổ mang, rung chuông, chàm quạp, rắn lục...
Đẻn là một loài thuộc họ Rắn biển (Hydrophidae). Thân mình rất giống rắn nhưng khác là phần đuôi dẹp dần về phía sau như một mái chèo. Trong 15 loài đẻn có mặt tại vùng biển Việt Nam thì hầu hết đều có nọc độc, trong đó có một số loài được coi là cực độc so với rắn trên cạn, nhưng đẻn chỉ cắn người khi cần phải tự vệ... Những loài đẻn chúng ta thường gặp là: đẻn cơm, đẻn mỏ, đẻn vết...
Đẻn biển
Do tác hại khác nhau của nọc độc từng loại rắn, cho nên khi một người bị rắn cắn, các bạn hãy cố gắng xác định đó là loài rắn gì? Độc hay không độc? Nếu là rắn độc thì nó thuộc loại nào?
DỰA VÀO VẾT CẮN
Rắn độc: rắn độc thường để lại hai vết răng nanh sâu, ít chảy máu nhưng rất đau nhức và sưng tấy, nọc càng ngấm thì càng đau và sưng nhiều, chỗ hai vết nanh bầm tím.
Rắn không độc: Vết cắn của rắn không độc thì để lại đầu của hai hàm răng, nhưng không thấy dấu của răng nanh, vết cắn chảy máu.Một loại rắn độc đều có một cấu trúc răng và móc độc khác nhau, cho nên vết cắn để lại trên mình nạn nhân cũng khác nhau, nếu có kinh nghiệm, dựa vào dấu răng, người ta có thể chẩn đoán loại rắn đã cắn.
DỰA VÀO ĐỊA THẾ
Theo tập tính và nơi ở của rắn, chúng ta thường gặp
Rắn hổ nơi đồi núi, gò đống, bụi rậm, nơi cao ráo... Khi cắn, thường ngóc cao, bành cổ, thở phì phì.
Rắn mai gầm thường sống nơi ẩm ướt, ban đêm thường kiếm ăn theo bờ ruộng ẩm.
Rắn lục xanh thường sống nơi bờ cỏ, bụi cây.
Rắn chàm quạp thường sống ở các vùng đất đỏ, đồn điền cao su, rừng cát ven biển... hay nằm bên lề đường, ban đêm khi gặp người đi ngang thì phóng tới cắn và ngậm rất chặt, phải đá mạnh chân mới văng ra, cắn xong răng còn dính lại. Ban ngày, chàm quạp chỉ cắn khi cần tự vệ, cắn xong là bỏ chạy ngay nên không để lại răng.
DỰA VÀO TRIỆU CHỨNG CỦA NẠN NHÂN
Thành phần hóa học của mỗi loại nọc rắn khác nhau, do đó tác động sinh học trên cơ thể nạn nhân cũng khác nhgau.
Người ta thường phân biệt nọc rắn thành hai nhóm chính
1-Nhóm độc tố máu (hermorragin): Tác động chủ yếu liên hệ tim mạch, gây phân giải hồng cầu, đông máu và chảy máu, làm co huyết quản, gây trụy tim... Gồm nọc của các loài thuộc họ Rắn lục (viperideae). Rắn rung chuông (crotalidac)
2- Nhóm độc tố thần kinh (neurotoxin): Tác động chủ yếu liên hệ thần kinh, hô hấp. Gây liệt tay, liệt cơ hoành, cuối cùng ngạt thở và chết... Gồm các loại Rắn biển (hydrophydac) Rắn hổ (elapidac)
TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG GIỮA HAI NHÓM ĐỘC TỐ
CẤP CỨU
Khi bị rắn độc cắn, hãy bình tĩnh, càng ít cử động chổ bị rắn cắn càng tốt. Nếu bị cắn ở chân thì không nên đi lại, ngay cả một bước (nếu điều đó có thể được). Cấp cứu nạn nhân theo trình tự sau:
1- Đặt đai chỉ huyết (garrot) cách vết cắn 5-10 cm về phía tim. (Để cho máu lưu thông nuôi phần dưới) rồi cột lại.
2- Tẩy nọc tại chỗ bằng nước xà phòng, nước vôi, nước phèn, nước có chất chua, chất chát, thuốc tím...
3- Dùng dao nhọn, bén sạch, rạch rộng chỗ 2 vết nanh thành 2 hình chữ thập. Hút máu độc ra ngoài bằng cách nặn tay, dùng ống giác hơi, ống giác cao su, ống tiêm 10cc hoặc dùng miệng (nếu miệng không có vết trầy xướt, sâu răng... )
Lưu ý: Nếu vết cắn đã trên 30 phút thì không cần hút, vì không ích lợi gì mà đôi khi còn có hại thêm
Các bạn có thể dùng “cục hút nọc” bào chế từ một miếng sừng hươu nai hầm lâu trong nồi kín, đặt tại vết cắn để trung hòa lượng nọc.
Tác dụng của nọc rắn nhanh chóng và chỉ xảy ra trong môi trường trung tính hay axit, vô hiệu lực trong môi trường kềm. Do đó các chất sau đây có tác dụng làm hư hủy nọc rắn: Cloramin T, thuốc tím, tanin, saponin, papain (trong mủ đu đủ), bromelin (trong quả dứa) than hoạt tính, dịch tụy tang, nước vôi, nước javel...
ĐIỀU TRỊ
Tiêm huyết thanh kháng nọc (nếu có)
Cho nạn nhân uống rượu hội và viên hội. Rượu hội thì cứ 10-30 phút uống một chung. Viên hội thì viên đầu cho nạn nhân nhai ra xác đắp vào vết cắn và ngày uống 2 lần, mỗi lần 3 viên, liên tiếp trong 3 ngày.
Vì rượu hội là một bài thuốc rất hiệu nghiệm, chữa được hầu hết các loại nọc rắn, các bạn nên chuẩn bị sẵn trước khi đi thám hiểm hay vào những nơi hoang dã
Bài thuốc gồm:
- Ngũ linh chi 20 gr
- Xuyên bối mẫu 24gr
- Sinh Nam Tinh 24gr
- Bạch chỉ 24 gr
- Quế 24 gr
- Bạch thược 12 gr
- Bạch đậu khấu 24 gr
- Hà thủ ô đỏ 40 gr
- Thanh Phàn 24gr
- Bào sơn Giáp 24 gr
- Hùng Hoàng 40 gr.
Tất cả các vị thuốc trên, tán nhỏ, ngâm với 1,5 lít rượu 35 độ, trong 10 ngày thì dùng được. Nếu cần gấp thì chưng cách thủy trong 4 giờ.
Đắp thuốc tại chỗ:
Dùng các cây cỏ có tanin như: Ổi, Sim, Mua, Lựu, Sung, Trà (chè)Làm ấm cơ thể:Bằng các loại cây như: Quế, Gừng, Tía tô, Tỏi, Đại hồi, Đinh Hương, É Tía, Lá Lột, Kinh Giới, Trà Đậm.
Chống co thắt phế quản:
Dùng các cây như; Cà độc dược, Bối mẫu, Bán hạ, Nam Mộc Hương.Chống đau nhức:Đắp lại tại chỗ những vị thuốc tươi có chất nhầy như; Bông Bụp; Muồng trâu, Mồng tơi, Bồ ngót, Rau Lang, Nhớt họng gà...
Chống viêm nhiễm về sau;
Lá Móng tay, Phèn đen, Vú bò, Xuyên tâm liên, Cam thảo nam, cỏ Lưỡi rắn, Mần trầu, Nghệ, Vòi voi, Sài đất, Đọt sậy.
Khai thông đường dẫn thoát (gan, mật, ruột)
Hà thủ ô, Muồng trâu, Đại hoàng, Nghề răm, rau Má, rau Sam, cỏ Tranh, Dứa dại, Bìm bìm, Rau Đắng
CÁC BÀI THUỐC TRỊ RẮN CẮN
Bài thuốc số 1
- 20 gr bù ngót (hoặc rau răm hay cây Kim vàng)
- 5 gr Phèn chua
Tất cả bỏ chung giã nhuyễn, vắt nước uống, xác đắp lên vết cắt.
Bài thuốc số 2:
- 6-7 lá trầu
- 1 quả cau
- 1 chút vôi ăn trầu
- 1 miếng Quế bằng nửa ngón tay út giã nhuyễnTất cả trộn chung cho véo miệng nhai, nuốt lấy nước cốt. Hoặc giã ra vắt lấy nước uống.
(Trích trong Dược Lý Trị Liệu của GS Bùi Chí Hiếu)
Bài thuốc số 3:
Đào lấy một nắm cỏ cú (cỏ gấu) giã lấy nước hòa với nước trà chanh cho uống. Rất hiệu nghiệm (đây là một trong những bài thuốc) quý trong dân gian)
Bài thuốc số 4:
- Hạt hồng bì sấy khô 100gr
- Hạt hoặc lá vông vang sấy khô 100gr
- Hoa hoặc lá bông báo sấy khô 100 gr
Các thứ trên tán thật nhỏ, đóng gói nylon, cứ 25gr một gói, bảo quản nơi khô ráo. Khi dùng thì hoà với 100 ml cồn 75 độ hay rượu 45 độ lắc cho tan thuốc. Dùng bông chấm thuốc bôi đón chận quằng đỏ (do chạy nọc) từ phía trên bôi dồn xoáy trôn ốc đến vết cắn. (không bôi lên vết cắn), cách 10-15 phút bôi một lần. Khi quằng đỏ giảm thì 2-3 giờ bôi một lần.
Đây là bài thuốc gia truyền của dân tộc Mường. Đã từng ứng dụng nhiều nơi, kể cả trong quân đội, đều có kết quả rất tốt
Bài thuốc số 5:
- Hạt đậu nọc (còn gọi là đậu độc, đậu rừng).
Mọc hoang ở trong rừng. Tên khoa học chưa được xác định rõ. Thuộc loài Mucuna, họ Đậu (Fabaceae).


Là một loại dây leo thân gỗ, lá giống như lá sắn dây. Hoa mọc chùm màu tím đen. Trái giống bao đựng kiếng đeo mắt, màu đen, có lông phủ, chứa khoảng 4 hạt to gần bằng hạt mít. Vỏ hạt cứng, bóng có vân loang lổ trông rất đẹp, có một đường sống màu nâu chạy dài trên một nửa mép hạt


Cách dùng: Khi bị rắn độc cắn, dùng hạt bổ đôi dọc theo đường sống giữa (sau khi đã nặn máu, sát trùng. Lấy nửa hạt đắp mặt trong vào vết cắn băng lại, nếu hết nọc hạt tự bong ra. Sau 10-12 giờ mà vẫn còn sưng thì thay tiếp nửa hạt đậu khác.
CHÚ Ý: Hạt có chất độc, không được uống.
THÍCH HUYỆT:


Trường hợp rắn độc cắn vào bàn tay. Làm cho bàn tay và bàn chân sưng phù, càng to... Hãy dùng kim lớn (kim tam lăng hay kim tiêm lớn bằng thép không rỉ) thích cho dịch độc tiết nhanh ra ngoài, tránh gây hoại tử.
- Bàn tay sưng phù thì thích vào huyệt Bát tà (bên tay sưng)
- Bàn chân sưng phù thì thích vào huyệt Bát Phong (bên sưng)
Vị trí huyệt Bát tà: Ở các khe ngón tay trên chỗ thịt trắng đỏ giao nhau, mỗi tay có 4 huyệt.

Vị trí huyệt Bát Phong: Ở các khe ngón chân bờ trên chỗ thịt trắng đỏ giao nhau, mỗi chân có 4 huyệt.

Phương pháp thích: Sát trùng kim thích và vùng huyệt. Bàn tay hay bàn chân bên sưng để xuôi. Tay phải cầm kim thích nhanh vào các huyệt định châm, mũi kim hướng lên mu bàn tay hay bàn chân. Tùy theo sưng to hay nhỏ để quyết định thích sâu hay cạn (từ 5-15 mm). Làm cho dịch độc (có thể lẫn cả máu) chảy xuống là được. Sau khi thích xong, dùng tay nhẹ nhàng ép cho dịch chảy xuống. Nếu sau đó, dịch độc tăng làm sưng trở lại thì tiếp tục thích như trên. Một ngày có thể thích 2-3 lần. Sau 1-2 ngày sẽ bớt sưng.
Khi thích huyệt, đồng thời nên cho uống các bài thuốc giải nọc.
CÁC MÔN THUỐC NGOẠI KHOA
* Nếu giết được con rắn, sau khi đã thực hiện các biện pháp cấp cứu, mổ ruột con rắn lấy gan và mật đắp lên vết cắn, sẽ nhanh chóng giảm đau
* Bắt 7-9 con rệp nuốt sống với nước sôi để nguội, sau 10 phút sẽ giảm đau nhức. Những người đi rừng thường bắt rệp bỏ vào chai nhỏ mang sẵn theo trong mình, nếu bị rắn cắn thì lấy ra uống đồng thời bóp nát vài con rệp bôi vào vết cắn để cấp cứu.
* Dùng dịch âm đạo của phụ nữ bôi lên (Có thể các bạn sẽ cười nhạo hai cách trên đây, nhưng tác giả đã thấy tận mắt trên 3 người được cứu bằng những phương pháp này)
* Tìm một trong những cây sau đây, nhai hay giả với muối, vắt lấy nước uống, bã đắp lên vết cắn: Bồ cu vẽ, Bảy lá một hoa, Chua ngút, rễ và lá Đu đủ, Răm nghề, Cát đằng, ban nhật, Ớt...
ĐỀ PHÒNG RẮN CẮN
Thông thường thì rắn không chủ động tấn công người, trừ trường hợp phải tự vệ. Rắn hay ẩn núp trong các lùm cây, bụi cỏ, đống lá ủ, trên các cành cây, ven bờ nước... Khi di chuyển trong các khu vực nghi ngờ có rắn, các bạn nên:
- Cẩn thận xem chỗ mà mình sắp đặt chân xuống
- Dùng cành cây khua khắng vào bụi rặm trước khi thọc tay chân vào để lấy vật gì hay hái trái cây.
- Mang giày ống hoặc mặc quần áo rộng, dài, dày...
- Cẩn thận trước khi mang giày hay mặc quần áo, vì rắn có thể ẩn núp trong đó.
- Tìm hiểu các tập tính và biết các phân biệt các loại rắn, nhất là rắn độc.
- Biết các sơ cứu và điều trị khi bị rắn cắn.
GHI CHÚ:Sở dĩ chúng tôi đề cập khá nhiều về mục RẮN CẮN là do ở nơi hoang dã, các bạn dễ bị rắn cắn hơn là bị các loài thú khác tấn công. Khi bị rắn cắn, các bạn cũng rất dễ bị tử vong nếu không biết cách cấp cứu và điều trị. Hiện nay trên thế giới, số người bị rắn cắn hàng năm lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm ngàn người và tỷ lệ tử vong cũng rất cao, trong khi số người bị mãnh thú tấn công không có là bao.
* Lưu ý: Đa số những người bị rắn không độc cắn đã được “điều trị thành công” bằng các dược thảo gia truyền, do đó có sự ngộ nhận về hiệu lực của thuốc, các bạn nên cẩn thận.
CÁ SẤU VÀ THẰN LẰN HẠT (Gila monster)
Trong lớp bò sát, còn có hai loài có thể gây nguy hiểm cho chúng ta là cá sấu và thằn lằn hạt Cá Sấu: Các loài cá sấu (lớn hay nhỏ) thường sinh sống trong những vùng hoang vu trên thế giới, trong các đầm lầy, các dòng sông... và có một loài sấu rất lớn sống ven bờ biển, hoang đảo. Cá sấu ít khi chủ động tấn công người ở trên cạn, trừ khi bị khiêu khích, nhưng nếu các bạn đang vùng vẫy dưới nước là một chuyện khác, nó sẽ trở thành hung thần.
Bộ cá sấu (Crocodilians): có 3 họ1- Họ cá sấu chính thức (Crocodililidae): có 3 giống là Crocrodylus, Osteolemus và Tomistoma.2- Họ mãnh ngạc (Alligatorlidae): gồm 4 giống: Alligator, Caiman, Melanosuchus và Paleososchus)3- Họ cá sấu mõm dài (Gavialidae); chỉ có một loài duy nhất sống ở Ấn độ gọi là cá sấu sông Hằng (Gavialis gangeticus)Ở Việt Nam các bạn thường gặp 2 loại cá sấu là:1- Cá sấu xiêm (Crocodylus siamensi). Là loài sấu nhỏ, dài khoảng 3m, thân màu xám, đầu ngắn và rộng, sống ở nước ngọt.2- Cá sấu hoa cà (Crocodylus porosus). Loài cá sấu có thể dài hơn 8m, thân màu vàng có xen lẫn vảy đen, đầu dài và thuôn, sống ở vùng nước mặn, ven biển.Ngoài ra, chúng ta còn nhập khẩu của Cuba loài sấu bàn cờ (Crocodylus rhombifer) để nuôi.
Thằn lằn hạt: chỉ thấy ở vùng Nam Mỹ, Trung Mỹ và Mexico. Loài thằn lằn có nọc độc này khi cắn cũng gây chết người như các loài rắn độc. Xử lý cũng như khi bị rắn độc cắnLƯU Ý: Các loài bò sát (kể cả những loài có nọc độc) đều ăn được và rất ngon. Tuy nhiên khi làm các bạn cũng nên cẩn thận khi làm thịt. Nên chặt bỏ đầu và lòng ruột, chôn sâu xuống đất để phòng dẫm phải.
NGUY HIỂM Ở DƯỚI NƯỚCỞ dưới nước, ngoài các loại đẻn và một số rắn độc như đã trình bày trên, các bạn còn có thể gặp một số nguy hiểm khác như bị cá sấu, cá mập, cá piranha... tấn công, bị chạm vào xúc tu của các loài sứa làm bỏng rát, liệt cơ... bắt nhầm cá chình hay cá đuối điện bị điện giật, ăn trúng cá nóc hay ốc độc có thể vong mạng... Chúng ta thử điểm qua một số loài có thể gây nguy hiểm cho chúng ta.CÁ MẬP:Có tới 354 loài cá mập, nhưng trong đó chỉ có chừng 30 loài là thực sự nguy hiểm đối với con người, đứng đầu danh sách này là cá mập trắng, cá mập xanh, cá mập hô, cá mập đầu búa...Riêng ở Việt Nam chúng ta có thể gặp một số cá mập ngoài những loài đã kể trên như: Cá mập đen, cá mập bẻo, cá mập kiếm, cá mập giống, cá mập cào, cá mập xà...Sỡ dĩ cá mập trở thành “Hung thần biển cả” là vì ngoài tính hung dữ, phàm ăn, sức khỏe... thiên nhiên còn phú cho nó những bộ phận phát triển rất hoàn hảo để phát hiện và định vị con mồiChúng còn rất tò mò, có việc gì xảy ra trên biển là chúng tới ngay để “tìm hiểu”. Có khi chúng bơi sát tới gần và cọ vào vật lạ (da cá mập rất nhám, có thể gây thương tích) hoặc ngoạm nhẹ để thăm dò, nếu các bạn bị chảy máu là coi như là một miếng mồi ngon của nó. Cá mập còn tấn công con mồi theo mùi nước tiểu hay những động vật có cử động không bình thườngNguyên nhân chủ yếu cá mập tấn công người không phải chỉ do đói mà còn do bị kích động như ngửi thấy mùi máu tanh, mùi thức ăn ném xuống biển, nghe những tiếng va chạm của tàu thuyền, tiếng nổ…Phòng chống cá mập:* Những người bị thương chảy máu không được xuống nước.* Không ném những vật có máu hay có mùi máu xuống biển vì như thế sẽ thu hút cá mập đến.* Không bỏ rủ tay chân xuống nước ở hai bên mạn xuồng, vì cá mập có thể tấn công bất ngờ.* Không cởi bỏ áo quần khi ở trong vùng có cá mập, đề phòng lớp da thô ráp của cá mập cọ phải làm bị thương chảy máu* Cởi bỏ những vật lấp lánh và phát sáng như đồng hồ, dây chuyền, huy chương, chìa khóa* Bơi nhè nhẹ, mềm mại, uyển chuyển, tránh những động tác mạnh bạo làm kích động cá mập* Khi thấy cá mập lượn vòng thì thường đó là dấu hiệu chuẩn bị tấn công, phải nhanh chóng lên thuyền hay lên bờ ngay*Cá mập thường tấn công vào thời điểm các bạn rời khỏi mặt nước (lúc người còn nửa trên nửa dưới). Vì vậy, các bạn cần nắm chắc thời cơ, khi thấy cá mập sẽ tấn công không kịp thì lập tức lên xuồng hay lên bờ ngay.* Nếu thấy cá mập bơi về hướng mình thì không được hoảng sợ bơi tháo chạy (chắc chắn các bạn không thể nào bơi nhanh bằng cá mập) làm như thế chỉ kích thích tính hung hãn của cá mập mà thôi. Nên bình tĩnh tìm cách đối phó như dùng súng bắn (nếu có) dao đâm, gậy chọc... Nếu tay không thì dùng nắm tay đấm thẳng véo mũi cá mập hay duỗi thẳng hai ngón tay chọc mạnh vào mắt nó. Tiếng thét lớn và mạnh cũng làm cho cá mập hoảng sợ bỏ chạy.* Sau hết, các bạn không nên đi bơi ở những vùng biển sâu, vùng biển có cửa sông, nhất là thời gian từ chập tối đến rạng sáng.CÁ PIRANHA:Những con ác quỷ này có gần 60 loài, tất cả đều thuộc họ Serrasalmidac. Loại lớn nhất có thể dài đến 60 cm nặng 10 kg, loại nhỏ 10 cm, có nhiều màu khác nhau. Cá Piranha sống ở sông, hồ, ao, đầm lầy... vùng Nam Mỹ, từ Venezuela cho đến Bắc Brazil.Đây là một loại cá cực kỳ hung dữ, ăn tạp, sống thành bầy đàn, nhanh nhẹn, tinh khôn, có hàm răng rất khỏe và sắc nhu dao để xé thịt.Kích thước của con mồi không có ý nghĩa gì với chúng, nhất là khi con mồi (người hay vật) đang bị chảy máu. Với một con mồi nặng khoảng 10kg chỉ sau 5 phút là con trơ lại bộ xương. Ngay cả khi đã bị bắt, cá Piranha vẫn còn có thể cắn người. Vì vậy, không nên lội qua những nơi có cá piranha, nhất là khi đang bị thương, có máu chảy. Cũng may mà ở Việt Nam không có loại cá này.CÁ ĐIỆNCó khoảng 50 loại cá phát ra điện để săn mồi và tự vệ, những con cá này được gọi là cá điện.Các ngư dân ở nước ta rất sợ một loài cá đuối đặc biệt: cá đuối điện (Torpedo= Cá thụt) Khi đã câu lên thuyền rồi nếu lỡ chạm phải là bị giật cho té ngửa. Người ta đo được điện thế loài cá này là 360VCá chình điện ở Nam Mỹ có thể mang điện thế đến 600V, sống ở sông Ampazon và sông Orinoco, cá chình điện có thể dài hơn 2m và nặng khoảng 20 kgCá trê điện dài gần 1m, được tìm thấy ở những vùng nước ngọt Châu Phi. Loài cá này gây những cú sốc điện mạnh gần bằng cá chình điện.Loài cá điện nhỏ gọi là cá “trừng sao” không dài hơn 30 cm, thường vùi mình trong cát để phục kích các con vật nhỏ. Khi đụng đến nó, sẽ bị giật làm cho tê liệt và dễ dàng biến thành mồi cho nó.CÁC LOẠI CÁ CÓ GAI ĐỘCMột số loài cá mang trên mình gai độc để tự vệ, những loài cá này các bạn có thể ăn thịt, nhưng khi đánh bắt thì phải thận trọng, điển hình cho loài này làCá đuối gai:Loài cá có một hay hai cái gai nằm ở đuôi, gần cuối cơ thể, đầu gai có những tuyến chứa.Cá thường ẩn mình dưới cát rất khó thấy, khi bị khiêu khích hay vô tình dẫm phải, nó sẽ quất mạnh đuôi vào đối thủ, gây đau đớn, nhức nhối và tê liệt cho kẻ thùCá ngát:Có hình dáng giống như cá trê nhưng to lớn hơn. Được trang bị những cái gai sắc nhọn hai bên hông và trên lưng. Nếu các bạn bị các loại cá này đâm phải, thì sẽ bị nhức nhối vô cùng.Cá mâu (mặt quỷ), cá đá:Sống ở vùng biển Đông Nam Á và châu Đại Dương, thường ẩn mình trong các hốc đá và bụi rong. Không có vảy, nhưng cơ thể chúng được bao bọc bằng những gai sắc nhọn có chứa nọc độc. Nọc độc của các loại cá này (nhất là cá mâu lửa) có thể gây hoại thư, thậm chí có trường hợp chết ngườiCá rồng biển:Thường sống ở các vùng biển châu Âu, thịt ngon nhưng có nọc độc ở gai nắp mang và vây trên lưng. Khi bị chích thì rất đau buốt và có thể làm chết ngườiTheo kinh nghiệm của ngư dân, khi bị cá rồng đâm vào, thì lập tức xoa vết thương lên cát hay bôi mỡ hoậc cấp cứu như khi bị rắn cắn.Cá dày (Scorpena):Loài cá này cũng chứa nọc độc trong các vây khiến cho vết thương rất đau buốt.Ngoài ra, chúng ta còn gặp ở Việt Nam những loài cá quen thuộc có gai độc như: cá trê, cá úc, cá chốt, cá ngát sọc, cá nâu, cá rìa, cá vượt... và một số cá có mặt ở một số vùng trên thế giới như: cá monk, cá surgeon, cá zebra, cá weever, cá thom...CÁC LOÀI CÁ CÓ CHẤT ĐỘCCá nóc:Hiện nay, người ta đã thống kê được khoảng 60 loài cá nóc, phân nửa trong số này có chứa độc tố bên trong. Ở nước ta có khoảng 20 loài cá nóc, một số loài sống ở nước ngọt như: cá nóc Mít, cá nóc Vàng... Nhưng phần nhiều là cá nóc sống nước mặn như: cá nóc Hòm (Hùm), cá nóc nhím, cá nóc Mú, cá nóc Gáo, cá nóc Tàn Nhan, cá nóc Rằn, cá nóc Phi (Trương Phi), cá nóc Thu... Trong số đó có 2 loài cực độc, ngư dân không dám đụng đến là cá nóc Phi và cá nóc Thu. Số còn lại, nếu biết cách làm và nấu, có thể ăn được.Cá nóc là loài có mình tròn, thân ngắn, có nhiều gai, không cá vảy hay vảy kém phát triển, mắt lồi, miệng nhỏ có răng gắn với nhau thành tấm lưng màu nâu hoặc xanh hay vàng tùy theo loại cá, bụng trắng. Đặc biệt khi gặp nguy hiểm thì ngậm hơi và phình bụng to ra như quả bóng. Trong mình cá nóc mang những chất cực độc như là terrodotoxin, ciguatoxin, ciguaterin... tập trung chủ yếu ở gan, ruột, và cơ bụng, nhất là từ tháng Hai đến tháng Bảy là mùa sinh sản.Mặc dù một vài loại cá nóc là đặc sản (cá nóc Nhím, cá nóc Mú, cá nóc Hòm... ) thịt ăn rất ngon. Nhưng nếu các bạn không phải là tay chuyên nghiệp thì nên tránh xa, cho dù nó có thơm ngon và hấp dẫn đến đâu đi nữa.Khi bị trúng độc cá nóc, trước tiên, thấy tê lưỡi và môi, rân rang đầu ngón, tay ngón chân như kiến bò, tiếp theo là nôn mửa, nhức đầu choáng váng, khó chịu ở trán và tròng mắt, đồng từ giãn, da tím, thân nhiệt và huyết áp hạ. Sau 2 giờ, nếu không cứu chữa, toàn thân sẽ bị tê liệt, lạc giọng, hàm cứng (nhưng vẫn tỉnh táo) chỉ trước khi chết mới bất tỉnh, liệt hô hấp rồi chết (tỷ lệ tử vong 60%). Nói chung, nếu sau 24 giờ mà vẫn còn sống thì có cơ may cứu thoát.Theo kinh nghiệm dân gian, độc cá nóc có thể giải bằng nước dừa, nước quả trám, nước rễ rau muống. Nướng trái bông vải rồi sắc uống. Đắp muối toàn thân chỉ chùa mắt mũi. Cho uống than hoạt tính hay dùng 2 muỗng canh tro thực vật pha trong 1 lít nước để lắng rồi cho uống. Nhưng cũng còn tùy theo nhiễm độc nặng hay nhẹ.Các loại cá khác:Khi khảo cứu về độc tố của các sinh vật biển, nhiều nhà sinh vật học rất bối rối. Có nhiều loại cá chưa bao giờ nghe nói ăn mà bị trúng độc, thế mà lại có thể gây họa. Một số có độc ở vùng này nhưng không độc ở vùng khác, một số chỉ gây độc vài ba tháng trong nămCá chình:Ở vùng biển Hắc Hải, đã có hàng ngàn người chết vì cá chình biển, trong khi ở Đông Nam Á là một món đặc sản. Nhiều nghiên cứu cho thấy chất độc nằm trong máu, có lẽ do cá ăn những sinh vật mang trong mình nhiều độc tố ở trong vùng sinh trưởng của nó. Đây cũng là một loại cá dữ, hay cắn người.Cá lịch (maraelae):là một loài tương tợ như cá chình, sống ở Địa Trung Hải, Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương, thịt rất ngon nhưng máu rất độc.Độc chất đôi khi còn thấy hiện diện trong máu của các loài cá miệng tròn, cá tinca, cá chép, cá ngừ, cá đuối điện...Một số loài cá cũng chứa chất độc trong trứng như cá Cung (schizothorax) cá Dưa Chuột (diptychus)... có thịt lành và có giá trị kinh tế ở vùng Trung Á, nhưng trứng của nó rất độc, cho nên trước khi chế biến, phải bỏ hết nội tạng.Ngay cả loài cá nhồng (barracudas) mà chúng ta vẫn thường ăn, nhưng vẫn có nhiều người bị trúng độc, tê miệng, ngứa môi phải đi bệnh việnỐC ĐỘCLoài ốc sên biển hình nón (contesnail) có vân cẩm thạch nhìn rất đẹp, nhưng xin chớ lầm, nếu giẫm phải chúng, sẽ bị tiêm những ngòi nọc, độc không thua nọc rắn hổ, rất đau đớn và có thể chết ngườiSAM ĐỘCLoài Sam (còn gọi là cua móng ngựa) thường sống ở vùng cát pha bùn ven bờ biển, có thịt và trứng ăn rất ngon, nhưng các bạn phải cẩn thận với những con Sam bắt được ở vùng nước lợ (ngư dân gọi là Sam lông hay con So) có kích thước nhỏ hơn, mình nhiều lông, đuôi tròn (thay vì tam giác như Sam thường) đi lẻ (không bắt cặp), thịt rất độc, chết người, không thể ăn được. Ngoài ra, nếu các bạn bắt được những con cua mà thấy hơi dị dạng, bẻ que ra mà thấy có chất lỏng như mủ thì đừng ănSỨA, THỦY CẨUSứa: Là một sinh vật gần như trong suốt, có thân hình như một cái dù, màu trắng, xanh lơ hay hồng, có hay không có điểm những chấm màu nâu, đỏ. Các loại sứa thường thấy ven biển nước ta là sứa Rô, sứa Sen, sứa Lửa...Là một loại thực phẩm khá phổ biến của ngư dân, nhưng nếu bạn bị nó chích khi đang bơi lội thì rất đau đớn như bỏng rát, có thể bị liệt cơ, nên rất nguy hiểm. Nhưng nguy hiểm nhất là các loài sứa sau đây:Thủy cầu và sứa Hộp:Thủy cầu có tên khoa học là Physalia phisalis. Là một sinh vật trông giống như sứa nhưng có những cánh tay rất dài và mềm, lòng thòng chìm sâu trong nước. Trên mỗi cánh tay có nhiều hấp khẩu chứa đầy chất độc nguy hiểm hơn nọc rắn.Do tác động với lân tinh trong nước biển, chúng phát ra muôn ngàn màu sắc rực rỡ. Trước đây, một đòan thủy thủ Anh đang tuần tra ven biển Bồ Đào Nha, trông thấy một khối ánh sáng lấp lánh đủ màu, họ cho đấy là chiến thuyền của Bồ Đào Nha nên đánh tín hiệu chào nhưng không thấy trả lời. Sau đó, họ khám phá ra đấy chỉ là một đàn thủy cầu. Từ đó người ta quen gọi nó là “Chiến thuyền Bồ Đào Nha” (PORTUGUESE MAN OF WAR) mà quên hẳn tên nó là Thủy cầu hay Physalia physalis.Thủy cầu thường trôi nổi bềnh bồng trên dòng Gulf Stream, Bắc biển Caribe đến Nova Scotia, nó còn lảng vảng trên Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Những tay bơi lội ngoài biển mà gặp phài thủy cầu thì kể như khó mà sống sót. Vì thế người ta còn gọi nó là TỬ THẦN CỦA BIỂN.Sứa hộp (Chironex Fleckeri):Tên sát nhân của biển này đã có một danh sách nạn nhân khá dài, phần lớn là trẻ em ở ven biển Bắc Úc, nó còn có họ hàng ở Châu Phi, Trung Mỹ... Nó đã thoát khỏi sự nhận diện của các nhà khoa học cho mãi đến năm 1956. Một con sứa hộp có khoảng 60 xúc tu trông như một mớ dây hỗn độn, trong đó chứa hàng tỷ túi chất độc hơn cả rắn hổ mang, đủ sức giết chết 20 người đàn ông khỏe mạnh. Nếu xúc tu của chúng tiếp xúc đúng mức, nạn nhân sẽ chết sau 2-3 phútKhi bị tiếp xúc với sứa hộp mà còn sống sót, thì người ta dội dấm lên mình của nạn nhân để cấp cứu.Những nguy hiểm khác:Khi bơi lặn ở dưới nước, ngoài các động nguy hiểm như đã kể trên, các bạn còn có thể gặp một số sinh vật có thể gây thương tích thậm chí nguy đến tính mạng của các bạn như:Hàu Đá:Bám rất chắc vào những tảng đá ven biển, có cạnh rất sắc bén. Nếu các bạn trượt chân té trên những tảng đá có hàu bám, chắc chắn sẽ có những vết thương nhớ đờiỐc đinh, ốc kèn:Có thể luộc ăn được, nhưng nếu giẫm lên nó là thủng chân, vì đít của nó rất nhọn.Cầu gai hay nhím biển:Thường gặp ở rìa đá ngầm vành đai san hô... có gai dài và nhọn mang chất độc gây lở loét.Sò nón khổng lồ:Có nhiều ở quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa của nước ta và vành đai san hô nước Úc... Đây là một loài sò khổng lồ, có khi to hơn cái nón lá, thịt ăn được. Nhưng nếu bạn cho tay vào hay vô tình giẫm chân vào là nó kẹp dính bạn cho đến lúc bạn chết đuối. Nếu muốn lấy tthịt nó, trước hết các bạn phải chêm hai mảnh vỏ lại bằng cây hay đáNhện độc:Trong các loài côn trùng độc, có lẽ nhện là con vật mang mầm độc cao nhất. Có những con nhện chỉ với một vết cắn bé tí xíu, với một chấm chất độc bằng đầu kim, đủ để giết chết một con người. Tuy nhiên, trong số 40.000 loại nhện khác nhau, chì có độ 100 loại với nọc độc có khả năng gây khó chịu cho con người, nhưng chỉ có khoảng 10 loại là thật sự nguy hiểm.Tiêu biểu nhất là “góa phụ đen” (Black Widow). Đây không phải là loại nhện độc nhất, nhưng nó đông đúc và phổ biến ở vùng Châu Mỹ. Chỉ có nhện cái mới đe dọa con người. Ảnh hưởng của vết cắn đến sau 1-2 giờ. Nạn nhân co giật liên hồi và bị ngẹt thở, có khi nạn nhân hoảng loạn thần kinh la hét sợ hãi, cho dù nọc của nó hiếm khi làm chết người nhưng nó vẫn rất nổi tiếng.Ở Châu Mỹ còn có một loại nhện độc cũng khá đông đúc nữa đó là nhện nâu (Brown Recluse) có nọc độc như “goá phụ đen” và còn gây hoại thư.Tuy nhiên, hai loài nhện trên cũng còn thua xa loài nhện Funnel- Web ở Sydney nước Úc cả về nọc độc lẫn tính hung hăng của nóVới bộ nanh dài gần 1 cm, loài nhện cực độc này tấn công mọi sinh vật mà nó gặp trên đường đi.Chỉ vài phút sau khi bị cắn, chất độc sẽ tác dụng lên cơ của nạn nhân, khiến lưỡi bị co thắt, dớt dãi chảy lòng thòng, nạn nhân nôn mửa, toát mồ hôi, khó thở, huyết áp tăng, các bắp thịt quằn quại như thể có đàn rắn nằm dưới da. Với một vết cắn của Funnel- Web, có thể giết chết một em bé sau vài giờ hoặc một người lớn sau vài ngày.Ở nước Úc, còn có những loài nhện cực độc khác như (Phoneutia fera) có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Loài Atrax robustus cũng là một trong số 37 loài Funnel Web cực độc... Ngoài ra, chúng ta cũng phải kể thêm loài nhện Loxosceles ở châu Mỹ, loài Tarantula ở rừng Amazon, tuy ít độc hơn các loài trên, nhưng không kém phần nguy hiểm.Con rết (rít, ngô công):Cơ thể của rết thường là nhỏ, nhưng cũng có con dài tới 25 cm. Thân dẹt, bao gồm khoảng 20 đốt, mỗi đốt mang một đôi chân. Đầu ngắn, miệng nằm giữa hai hàm trên. Đôi chân thứ nhất biến thành răng hàm có móc chứa nọc độcRết thường ẩn núp dưới các tảng đá, thân cây, lá cây, vỏ cây mục, cỏ khô, rác ẩm... Chúng hoạt động chủ yếu về đêm.Khi bị rết cắn, tuy không làm chết người, nhưng sưng nhức và đau đớn, có thể gây sốt, khó chịu vô cùng. Các bạn hãy dùng một trong những phương pháp sau đây:- Bôi vôi hạt quất (tắc, kim quít) đắp vào vết cắn.- Lấy lá bạc hà, húng chanh, rau sam. Giã đắp vào vết cắn.- Nhai nhỏ một tép tỏi, đắp vào chỗ cắn. Đưa chỗ bị cắn vào gần ngọn đèn hay lửa cho thật nóng (không để bị phỏng) để yên vài phút, sẽ giảm đau ngay.- Bắt một con nhện nhà (tri thù) còn sống, để vào chỗ bị cắn; nó sẽ hút hết nọc.Bọ cạp:Ở Việt Nam, chúng ta thường gặp 2 loại bọ cạp là: bọ cạp núi và bọ cạp củi.Bọ cạp núi:Là loại lớn, dài khoảng 12cm, mình màu xanh, đen bóng. Thường gặp ở rừng núi, hải đảo, đất hoang... Tuy to lớn nhưng chích không đau nhức bằng bọ cạp củi.Bọ cạp củi:Là loại nhỏ chỉ dài từ 5-6 cm có màu nâu xám (giống màu vỏ cây). Thường ẩn mình dưới các tảng đá, đống cây, hốc cây, khe núi... và cũng hay chui vào các đống áo quần, giày dép... Loài bò cạp này chích rất đau nhức, nhất là khi nó đang có chửa.Điều trị bọ cạp chích cũng giống như khi bị rết cắn.Ong đốt:Thông thường thì loài ong ít khi tấn công người, trừ khi chọc phá hay bị khiêu khích. Khi ong bay đến gần chúng ta, không nên dùng tay xua đuổi, vì như thế chúng cho là tấn công. mà nên bình tĩnh, không phản ứng bằng hành động, tự nó sẽ bay đi.Các loài ong có ngòi độc thường gặp ở Việt Nam và một số nước trên thế giới là: ong đen, ong vàng, ong lá, ong mật, ong khoái, ong ruồi, ong sắt, ong bầu, ong vò vẽ, ong bắp cày, ong ngựa, ong đất, tò vò... Mội loài đều có nọc độc cũng như tập tính khác nhau. Thí dụ:Ong bầu:là loại ong có vết đốt gây nguy hiểm nhất trong các loài ong vì nó chứa một lượng lớn nọc độc và vòi chích của nó rất dài, có thể xuyên thẳng đến mạch máu.Ong vò vẽ:loại ong này khá dữ tợn, vết đốt rất đau nhức và nó có thể đốt nhiều lần vì kim chích của nó không bị dính lại ở da kẻ bị đốtOng khoái:là một trong các loại ong mật, rất phổ biến y trong các cánh rừng tràm ở miền Tây Nam Bộ. Có cơ thể to hơn các loài ong mật khác và cũng dữ tợn hơn. Vòi chích của nó dính lại ở da người bị đốt, cho nên sau khi đốt, nó sẽ chết.Ong đốt tuy rất đau nhức, nhưng không nguy hiểm đến tính mạng, trừ khi bị đốt một lúc từ 50 con trở lên hoặc cơ thể người đó bị dị ứng với nọc độc.Khi bị ong đốt, nếu thấy ong để ngòi nọc lại, thì phải nhổ ra, sau đó hãy dùng một trong những phương pháp sau:- Bôi vôi (ăn trầu) hay kem đánh răng vào chỗ bị đốt- Tán nhỏ Aspirin rắc lên nơi bị đốt, sẽ giảm đau.- Dùng hành tươi hay nửa trái chanh chà lên chỗ bị đốt- Dùng ammoniac hoặc dấm bôi lên chỗ bị đốt.- Đập chết con ong, xé xác đắp lên chỗ bị đốtVe cắn:Ve nầy không phải là ve sầu kêu trong mùa hè mà là một loại côn trùng rất nhỏ, có nhiều ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, cùng loại với bọ chó ở nhà. Bình thường, chỉ bằng đầu cây tăm, khi hút no máu thì phình lên bằng đầu chiếc đũa, đầu giả có gai, khi cắn vào người hay thú để hút máu, gai giương lên bám chặt vào cơ thể nạn nhân.Khi bị ve cắn, nếu các bạn cầm con ve kéo ra ngày thì đầu giả sẽ đứt dính trở lại trong da thịt, gây nóng sốt và làm ngứa ngáy cả năm mới hết. Muốn tránh điều đó, các bạn nên dùng đầu que nhang, que diêm, điếu thuốc đang cháy, chạm vào đít của nó rồi từ từ mới lôi ra để giết, sau đó bôi vôi lên vết cắn.Muỗi:Chúng ta có thể gặp muỗi bất cứ ở nơi nào trên thế giới. Là một giống côn trùng bé nhỏ mà nguy hiểm của nó không do vết đốt gây ngứa ngáy khó chịu mà do những căn bệnh chết người mà nó truyền cho con người như: sốt rét ngã nước, sốt vàng da, sốt xuất huyết... mà chúng ta không còn lạ gì. Bệnh sốt rét do muỗi Anophele truyền sang người khi đốt. Bệnh sốt da vàng do muỗi Acdes. Bệnh sốt xuất huyết do loài muỗi vằn...Các bạn nên tìm mọi cách để tránh không bị muỗi cắn bằng các cách sau:- Làm chỗ trú ẩn nơi cao ráo- Ngủ trong mùng nếu có thể- Đốt lửa hun khói bằng những cây có tinh dầu- Trát bùn lên cơ thể, những nơi không có áo quần che chở. - Mặc cả áo quần, giày vớ, găng tay, nếu có thể được.- Ngâm mình trong bùn không những có thể chống được muỗi mà còn tránh được thú dữ, côn trùng, rắn rết...- Thoa thuốc chóng muỗi (insect repellent) nếu cóCác loài côn trùng khác:Các bạn còn có thể gặp một số côn trùng khác ở những nơi hoang dã như: Ruồi trâu (mòng) cắn rất đau. Ruồi Tse Tse (ở Nam Phi Châu): gây bệnh ngủ dẫn đến chết người. Ruồi rừng (có nhiều ở Việt Nam): đẻ ấu trùng (giòi) vào các vết thương, gây lở lói, nhiễm trùng.. và rất nhiều côn trùng khác mà chúng tôi không thể kể hết
Được đăng bởi Lê Trần Ngự Vũ lúc 7/12/2008 01:33:00 SA
Nhãn: Sinh tồn nơi hoang dã 0 nhận xét
BẢO VỆ SỨC KHỎE
Như chúng tôi đã trình bày ở những phần trước, trong vùng hoang vu vắng vẻ, nhất là khi chỉ có một mình, nếu bị thương tích hay bệnh hoạn, thì tình cảnh của các bạn thật là thê thảm. Nó sẽ lấy đi của các bạn niềm tin và nghị lực, các bạn sẽ cảm thấy cô đơn, nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la, hung hiểm,… Và khi các bạn không còn nghị lực phấn đấu để sinh tồn thì thiên nhiên hoang dã sẽ nuốt chửng bạn. Cho nên các bạn phải làm sao cố gắng hết sức để gìn giữ và bảo vệ sức khỏe.
Các bạn cũng cần phải có một số kiến thức nhất định về một số cây cỏ, động vật, côn trùng dùng để đề phòng và chữa bệnh. Biết giữ gìn vệ sinh cơ thể cũng như vệ sinh khu vực trú ẩn. Biết đề phòng cũng như chữa trị một số bệnh thông thường, nhất là những căn bệnh thường gặp ở những nơi núi rừng hoang vu như: sốt rét, tả, lỵ,… Biết sơ cứu một số trường hợp khẩn cấp.
ĐỀ PHÒNG
1. GIỮ GÌN VỆ SINH
Thân thể:- Tắm rửa hàng ngày nếu có thể được.- Vệ sinh răng miệng. (nếu không có bàn chải đánh răng thì dùng vỏ cau khô hay một cành cây dẻo cắn nát một đầu)- Giặt giũ áo quần, phơi dưới nắng.- Không để cho côn trùng, ruồi, muỗi,… chích đốtNơi trú ẩn:- Quét dọn trong ngoài sạch sẽ.- Ánh sáng và thông thoáng.- Đốt bỏ hay chôn rác rến và chất thải.
2. ĐỀ PHÒNG CÁC BỆNH ĐƯỜNG RUỘT
- Rửa tay trước khi ăn, đừng bốc thức ăn bằng tay bẩn.- Ăn thức ăn đã được nấu nướng cẩn thận.
- Uống nước đã được đun sôi hoặc khử trùng.
- Đừng ăn củ hay trái còn xanh, sống.
- Đừng ăn thức ăn ôi thiu, để lâu.
- Không để ruồi nhặng, côn trùng đậu vào thức ăn.
3. PHÒNG NHIỆT
- Đừng làm việc quá sức dưới trời nắng.
- Đừng ở lâu dưới trời nắng.
- Uống nước sôi để nguội có pha muối (1/2 muỗng cà-phê cho một lít nước) khi ra nhiều mồ hôi.
4. PHÒNG LẠNH
- Sưởi ấm cơ thể mình bằng mọi cách.
- Giữ cho quần áo được khô ráo, nhất là quần áo lót, vớ,… nếu bị ướt, phải hong khô ngay. Không được mặc đồ ướt.
- Mặc nhiều quần áo để giữ ấm (có thể dùng cỏ khô, rêu, da thú, vỏ cây,… đệm giữa các lớp áo quần để chống lạnh).
- Giữ cho tay chân không bị tê cóng.
- Không dầm mưa hoặc tắm nước lạnh quá lâu.

CHỮA BỆNH KHÔNG CẦN THUỐC
Ở đây chúng tôi sẽ không hướng dẫn cho các bạn cách điều trị bằng thuốc Tây (điều này các bạn hãy tự nghiên cứu, vì cho dù nếu muốn, thì nơi hoang dã cũng khó mà tìm ra), mà chúng tôi sẽ hướng dẫn cho các bạn cách tự chữa cho mình bằng tất cả những gì bạn có hay có thể tìm kiếm được ở nơi hoang dã.
Người ta có thể tự khỏi được phần lớn bệnh tật, kể cả cúm và cảm lạnh thông thường mà không cần đến thuốc men. Cơ thể chúng ta có khả năng bảo vệ riêng của nó để chiến đấu chống lại bệnh tật. Nhiều khi khả năng bảo vệ tự nhiên này lại quan trọng hơn thuốc. Ngay cả trong trường hợp bệnh nặng, cần có thuốc, thì cũng là cơ thể phải chiến thắng bệnh, thuốc chỉ có vai trò giúp đỡ mà thôi. Sạch sẽ, nghỉ ngơi, thức ăn bổ dưỡng là những điều quan trọng và cần thiết để chiến thắng bệnh tật. Nếu các bạn đang ở một nơi hoang dã, thiếu thốn thuốc men, cũng vẫn còn nhiều điều các bạn có thể làm để phòng và chữa phần lớn các bệnh thông thường nếu các bạn chịu khó học cách làm.
Để chiến thắng bệnh tật, trước tiên, các bạn cần có một tinh thần kiên định và một nghị lực vững vàng. Ngoài những yếu tố sạch sẽ, nghỉ ngơi, ăn uống, các bạn cần phải biết cách sử dụng nước cũng như am hiểu một số dược thảo cơ bản.
Nếu các bạn chỉ tìm hiểu cách sử dụng nước cho đúng đắn thôi, thì riêng điều đó cũng có nhiều tác dụng để phòng và chữa các bệnh hơn là tất cả các thứ thuốc mà người ta dùng (không đúng cách) ngày nay.
CHỮA BỆNH BẰNG NƯỚC
Ai trong chúng ta cũng có thể sống mà không có thuốc, nhưng không ai có thể sống mà không có nước. Thật vậy, vì hơn phân nửa (57%) cơ thể của chúng ta là nước. Nếu tất cả mọi người đang sống trong các trang trại, làng quê hay những vùng hoang dã, biết sử dụng nước một cách tốt nhất, thì số bệnh tật và tử vong, rất có nhiều khả năng giảm đi một nửa.
Nhiều trường hợp sử dụng nước đúng cách, có thể có tác dụng hơn là thuốc men. Chẳng hạn, việc sử dụng nước đúng cách, là cơ sở trong cả phòng bệnh lẫn chữa bệnh tiêu chảy. Ở nhiều địa phương cũng như nơi nông thôn hoang dã, tiêu chảy là nguyên nhân thông thường nhất về bệnh tật và tử vong (nhất là trẻ em). Bệnh nhân chết là do cơ thể mất nước trầm trọng. Bị tiêu chảy là do sử dụng nước ô nhiễm. Dụng cụ ăn uống và tay chân không được rửa sạch.Để điều trị tiêu chảy, cần cho bệnh nhân uống nhiều nước (tốt nhất là uống với đường, mật ong hay muối), nó còn quan trọng hơn bất cứ một thứ thuốc nào.Sau đây chúng tôi nêu ra một số các trường hợp khác, mà việc sử dụng nước đúng đắn còn quan trọng hơn việc dùng các loại thuốc.
ĐỂ PHÒNG BỆNH:
1. Tiêu chảy, giun, nhiễm trùng đường ruột.
- Uống nước đã nấu chín, rửa tay sạch sẽ
2. Nhiễm trùng da
- Tắm rửa thường xuyên
3. Vết thương bị nhiễm trùng
- Rửa kỹ vết thương với nước và xà-phòng
ĐỂ CHỮA BỆNH
1. Tiêu chảy, kiệt nước
- Uống nhiều chất lỏng
2. Các bệnh có sốt
- Uống nhiều chất lỏng3
3. Sốt cao
- Chườm mát cơ thể
4. Nhiễm trùng nhẹ đường tiểu
- Uống nhiều nước
5. Ho, hen phế quản, viêm phế quản, viêm phổi, ho gà
- Uống nhiều nước và xông bằng hơi nước nóng.
6. Lở, chốc, nấm da, nấm da đầu
- Tắm với nước xà-phòng
7. Vết thương nhiễm trùng, áp-xe, nhọt, đầu đinh
- Đắp nước nóng hoặc chườm nóng
8. Cứng cơ, đau cơ và khớp
- Chườm nóng
9. Phỏng nhẹ
- Ngâm vào nước lạnh
10. Viêm họng hoặc viêm Amidan.
- Súc họng băng nước muối nóng.
11. Ngạt mũi
- Hít nước muối vào mũi.
Được đăng bởi Lê Trần Ngự Vũ lúc 7/12/2008 01:08:00 SA
Nhãn: Sinh tồn nơi hoang dã 0 nhận xét
LA BÀN

La bàn là khí cụ dùng để định hướng có thể dùng trên bộ, trên nước hay cả trong không gian. Có hai loại: la bàn từ dùng kim nam châm và la bàn điện dùng con quay điện. Trong bài này, chúng tôi chỉ nói về la bàn từ.
Lịch sử la bàn từ: Lịch sử la bàn bắt đầu từ hơn 1000 năm trước Công nguyên, lúc đó người Trung quốc khám phá ra nguyên tắc và từ từ phát triển thêm. Trần Trọng Kim chép trong Việt nam Sử Lược "... và ông Chu Công Ðán lại chế ra xe chỉ nam để đem xứ Việt thường về nước." (quyển 1, trang 13) Các sử sách Tây phương ghi lại là la bàn từ dùng kim nam châm được các nhà hàng hải Trung hoa dùng khoảng năm 1100 Tây lịch. Các thủy thủ Anh, theo học giả Alexander Neckam viết trong sách De Utensilibus (Về các dụng cụ) vào năm 1190, đã dùng la bàn từ trong khi đi biển.
Người Arập bắt đầu dùng la bàn khoảng năm 1220 và khoảng 1250 thì người Viking đã biết dùng loại la bàn này. Thuở đó người ta dùng một thanh nam châm, đặt trên một miếng gỗ nhỏ hay trên một cọng sậy rồi đặt vào một tô nước. Miếng gỗ hay cộng sây giúp cho kim nam châm nổi trên nước, làm triệt tiêu các lực ma sát. Nước giúp cho kim bớt chao đảo khi tàu lắc nghiêng hay dọc.

Kim nam châm là chất sắt có từ tính thiên nhiên lấy từ trong đá mang tên là lodestone (có chỗ viết loadstone, và còn có tên là magnetite), lấy từ chữ lodestar, theo người đi biển là ngôi sao chỉ đường, trỏ sao Bắc đẩu (Polaris hay Pole star tiếng Anh và Étoile polaire, tiếng Pháp). Người ta cũng sớm biết là nếu để cho một thanh kim loại chạm vào đá nam châm thì thanh kim loại cũng có đặc tính như đá nam châm, nghĩa là có khuynh hướng chỉ về một phía tương đối cố định. Và từ tính được truyền nhận như thế có thể bị phai dần theo thời gian. Thành ra các tàu bè dùng la bàn từ thời xa xưa vẫn phải mang theo một viên đá nam châm loại tốt, để có thể nam châm hoá hay từ hóa kim la bàn khi cần. Người ta đã biết đến sự từ hóa vào khoảng thế kỷ thứ 11.
Trung quốc được xem là nước đầu tiên dùng la bàn từ trong ngành hàng hải. Trước khi phát minh ra la bàn, thủy thủ định hướng bằng vị trí mặt Trời lúc ban ngày và vị trí của sao vào ban đêm, và người ta cũng thường theo hướng gió mậu dịch (Trade winds) theo mùa. Người ta đã tìm được những bản đồ thiên văn cho vị trí các chòm sao. Trong một bản đồ thiên văn xưa của Trung quốc ta có thể thấy chòm sao Thần nông (Scorpio hay Scorpion) và chòm sao Thiên ngưu (Taurus hay Taureau). Nhưng khi trời nhiều mây hoặc mưa thì không thể định hướng được. La bàn từ đã giúp giải quyết việc định hướng trong mọi hoàn cảnh thời tiết, kể cả việc định hướng của gió mậu dịch.

Người Arập học được cách dùng la bàn từ trong khi buôn bán với Trung Hoa. Sau đó la bàn từ được đem qua Tây Âu vào cuối thế kỷ thứ 12, rồi đến Bắc Âu vào thế kỷ thứ 13.. Dưới thời nhà Minh, nhà hàng hải Zhen He cùng với một thái giám triều đình nhà Minh đã đi 7 chuyến thật xa, qua tận bờ biển Phi châu. Mỗi chuyến đi, Zheng He dùng một đội từ 100 tới 200 chiếc thuyền và la bàn từ đã giữ vai trò quan trọng trong những cuộc hành trình này.
Từ cuối thế kỷ thứ 15 cho tới đầu thế kỷ 16, những nhà hàng hải Âu châu đã đi thám hiểm nhiều nơi, vẽ những đường đi mới, khám phá ra châu Mỹ và đã thực hiện những chuyến đi vòng quanh thế giới. Nếu không có la bàn từ thì khó thể thực hiện được các chuyến viễn du này..

La bàn từ qua các thời đại:La bàn đầu tiên được gọi là "kim chỉ Nam" do người Trung Hoa phát minh rất sớm, ngay khi người ta tìm ra được từ lực và đá nam châm, trong khoảng thời kỳ chiến tranh, nhà Chu lập quốc. Kim chỉ nam ngày xưa khác la bàn ngày nay. Nó có hình dáng một cái muỗng cắt ra từ một miếng nam châm thiên nhiên và được đặt trên một cái đế bằng đồng đã được mài láng để giảm ma sát. (Lúc đó người ta đã biết đồng là kim loại không có ảnh hưởng trên từ trường, và do đó, không làm lệch hướng của kim nam châm). Phần muỗng tròn láng để chính giữa đế đồng làm trọng tâm thành ra cáng của kim chỉ nam có thể quay xung quanh. Sau khi muỗng đứng im (cân bằng tĩnh) cáng muỗng chỉ hướng Nam. Người Trung quốc xem hướng Nam là hướng của vua chúa nên dùng chữ "chỉ Nam" chớ không dùng chữ chỉ Bắc. Nếu chiếc muỗng được dùng trên bộ, và thường thì được dùng trong ngành địa lý, phong thủy, chọn hướng xây nhà cửa, mồ mả ...
Những người đi biển ban đầu dùng "Cá chỉ Nam," dùng sắt cắt hình con cá, rồi được từ hóa. Khi được thả vô nước, "Cá chỉ Nam" sẽ lơ lửng trong nước và nằm theo trục Bắc Nam. Và người ta vẫn phải từ hóa "Cá" khi nào từ tính của nó yếu đi như đã nói ở trên. Lần lần người ta thay "Cá" bằng một cây kim bằng sắt đã được chà sát trên một nam châm thiên nhiên. Khi kim đã được độ từ hóa cần thiết, kim sẽ chỉ hướng Nam khi nằm trên một miếng gỗ nhỏ hay một cọng sậy, bềnh bồng trong nước. Đó là la bàn đầu tiên.
Sau đó kim từ hóa được gắn vào một cái chén đã có ghi phương hướng, thường là bốn phương chính Ðông, Tây, Nam, Bắc và bốn phương bàng: Ðông Nam, Ðông Bắc, Tây Nam và Tây Bắc. Về sau, còn thêm tám hướng phụ nữa như Bắc Ðông Bắc, Tây Tây Nam vân vân. Người ta cũng dần dần biết đến sự lệch của từ trường, độ từ thiên, độ từ lệch và các sự biến thiên này thay đổi theo vị trí của từng nơi, từng khu vực. (góc lệch từ, declination, từ thiên variation magnétique hay magnetic variation).
Lúc đầu mặt la bàn (còn gọi là Hoa gió , Compass Rose) được chia thành 32 khoảng, sau đó khắc theo vòng tròn thành 360 độ. Trên bộ, quân đội các nước dùng la bàn từ chính xác hơn, chia thành 6400 khắc. Ngành hàng không cũng dùng la bàn từ. Cho đến bây giờ, phần lớn các phi cơ trực thăng và một số phi cơ nhỏ vẫn còn được trang bị la bàn từ để làm khí cụ định hướng. Khi sử dụng trong ngành hàng hải, la bàn từ được dùng để chỉ hướng đi. Ðược trang bị thêm dụng cụ đo hướng người ta dùng la bàn từ để đo hướng đối chiếu từ hai hay ba đối vật được xác định theo bản đồ hải hành (đỉnh hay mõm núi, đèn phao, hải đăng, các kiến trúc đặc biệt ... để xác định vị trí con tàu, từ đó tính được khoảng cách đã đi, vận tốc, hướng phải đi ... và có thể nghiệm thêm, qua các cách tính, có hay không có giòng nước ngầm, sức gió ...
Trong thời cận đại, la bàn được gắn với hoa gió, có đường tim (lubber line đường tương ứng với trục theo chiều dài của con tàu) đặt trong bầu la bàn, mặt trên có kiếng trong và có đèn soi sáng. Bầu la bàn chứa một chất lỏng có mật độ (densité) rất gần với trọng lượng chung của hoa gió và kim nam châm để triệt tiêu sức dựa của phần này trên trục chịu. Bầu la bàn được treo trong hệ thống gimbals để lúc nào cũng giữ được mặt la bàn từ theo vị trí mặt phẳng. Ðài để đặt la bàn (pinnacle) thường được gắn rất vững chắc trên trục giữa theo chiều dài con tàu. Hai bên bầu la bàn từ có hai trái cầu tròn bằng kim loại và có thể xê dịch được. Người ta di chuyển hai trái cầu này trên giá của chúng để khử ảnh hưởng lên trên nam châm của la bàn do các kim loại trên tàu gây ra. Ngày nay người ta có thể điều chỉnh la bàn từ bằng cách so sánh các hướng đo bằng la bàn từ với hướng đo bằng la bàn điện.

Vì la bàn từ không cần đến một nguồn năng lượng bên ngoài., la bàn từ được dùng như là một khí cụ định hướng dự phòng hay để dùng trong trường hợp cấp cứu khi tàu bè mất điện. La bàn từ còn có thể được sử dụng bất cứ lúc nào, trong khi la bàn điện cần phải có một thời gian để con quay điện được khởi động và đạt đến vận tốc quay cố định. Và điểm đặc biệt nhất là la bàn từ có thể được chế tạo theo mọi cỡ lớn nhỏ, có thể cầm trong tay, hay gắn vào mặt sau của đồng hồ, vừa gọn, vừa nhẹ, và ai cũng có thể dùng được, không phải mất thời gian chỉ dẫn. Ngoài phát minh giấybánh xe có lẽ la bàn từ là phát minh được dùng, với ít nhiều cải tiến, lâu dài nhất.
Được đăng bởi Lê Trần Ngự Vũ lúc 7/12/2008 12:12:00 SA
Nhãn: Phương hướng 0 nhận xét
PHƯƠNG HƯỚNG
- Chúng ta không dám quả quyết phương hướng do ai tìm ra, nhưng ngay từ những thế kỷ trước Tây Lịch, người ta đã xác định được phương hướng rồi. Sử chép rằng năm Tân Mão thứ 6, đời Chu Thành Vương, phía Nam bộ Giao Chỉ có Việt Thường (vào đời Hùng Vương nước ta), mang chim trĩ trắng đến biếu. Khi trở về vua Tàu tặng sứ giả 5 cỗ xe chỉ nam.
- Chúng ta có thể biết rõ người xưa tìm được những phương pháp khá chính xác, nhờ những di tích của các cổ thành. Thực vậy, phép xây thành của người Trung Hoa có những quy luật nhất định, vì họ quan niệm rằng phải định hướng thành cho hợp với trật tự của trời đất. Các quan coi về sao đo bóng mặt trời lúc chính ngọ và quan sát cả sao Bắc Cực để định các phương hướng rồi mới xây thành.- Sau đây là vài cách để xác định phương hướng:
1. Tìm phương hướng bằng la bàn (địa bàn):
- La bàn là dụng cụ tìm phương hướng tuy không chính xác lắm, nhưng tiện dụng, trên mặt la bàn ta thấy 4 phương chính là Đông, Tây, Nam, Bắc.- Những hướng phụ là : Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam, Bắc Đông Bắc… Hoa phương hướng là một hình ngôi sao mà trên mỗi cánh mang tên một hướng
- Ngày xưa ở nước ta cây kim la bàn chỉ hướng Nam, chứ không chỉ hướng Bắc như bây giờ, bởi thế mới có danh từ “Kim Chỉ Nam”.
- Lúc chọn la bàn, chúng ta nên tìm loại có nút giữ kim cố định khi không sử dụng. Nếu chia mặt la bàn theo độ thì chúng ta có sự tương ứng sau :
+ Số 0 tức 0 độ (hay 360 độ) chỉ hướng Bắc.
+ Số 90 tức 90 độ chỉ hướng Đông
+ Số 180 tức 180 độ chỉ hướng Nam
+ Số 270 tức 270 độ chỉ hướng Tây
- Ta cũng nên lưu ý đến các ký hiệu quốc tế :
+ Chữ N là viết tắt của chữ North, dùng chỉ hướng Bắc
+ Chữ E là viết tắt của EAST, dùng chỉ hướng Đông
+ Chữ S là viết tắt của SOUTH, dùng chỉ hướng Nam
+ Chữ W là viết tắt của WEAST, dùng chỉ hướng Tây
- Vì ảnh hưởng của địa từ trường khác nhau theo vị trí của mọi nơi trên trái đất, thành thử la bàn không phải là một dụng cụ tìm phương hướng đúng lắm.
- La bàn còn hay bị lệch vì ảnh hưởng của các vật xung quanh hay do tật của chính nó nữa. Do đó những la bàn dùng trên các thuyền đánh cá loại nhỏ thường có ốc điều chỉnh.
- Trong quân đội còn quy định khi sử dụng la bàn phải tránh xa những mạch điện cao thế hay những vật bằng sắt. Sau đây là khoảng cách an toàn tối thiểu:
+ Những dây điện cao thế 60m
+ Trọng pháo, chiến xa 20m
+ Hàng rào, kẽm gai, dây điện tín 10m
+ Mũ sắt súng cá nhân 01m
- Cách giữ gìn: Ta không nên để la bàn nơi ẩm thấp và chỗ nóng, vì như thế nam châm của la bàn sẽ mất bớt từ tính. Khi sử dụng nên nhẹ nhàng để bảo toàn sự chính xác của cây kim chỉ hướng. (còn tiếp)
Được đăng bởi Lê Trần Ngự Vũ lúc 7/12/2008 12:10:00 SA
Nhãn: Phương hướng 0 nhận xét
Thứ sáu, ngày 11 tháng bảy năm 2008
TÌM PHƯƠNG HƯỚNG BẰNG SAO
Bầu trời đêm với muôn ngàn tinh tú luôn khiến chúng ta say mê. Từ rất lâu rồi những đốm sáng trên cao luôn chứa đựng những bí ẩn của vũ trụ và cả những khát vọng muốn khám phá nó của con người. Thuở xưa, khi cuộc sống con người còn gắn liền với thiên nhiên thì những ngôi sao những chòm sao trên bầu trời lại còn có những vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống hàng ngày, như được dùng để xác định thời gian, mùa màng … xác định phương hướng cho những nhà thám hiểm trong những chuyến hải hành dong buồm ra khơi xa.Bạn hãy cùng tôi lang thang trên bầu trời cùng với những chòm sao quan trọng trong việc định hướng đó là những chiếc la bàn thiên nhiên hay những “chìa khóa của bầu trời”.
Chòm sao Bắc Đẩu – Chòm sao Gấu Lớn (Ursa Major)
Ảnh : Chòm sao Gấu Lớn với bảy sao dạng gàu có tên gọi Bắc Đẩu.
Người Trung Quốc có câu “Biết được Bắc Đẩu, đi khắp thế gian”. Chòm sao Bắc Đẩu(1) ngày nay theo phân chia 88 chòm sao trên bầu trời của Hiệp Hội Thiên Văn Quốc Tế(2) thì nó là một phần của chòm sao Gấu Lớn (Ursa Major), đó là 7 ngôi sao có hình dạng chiếc gàu xuất hiện ở phía bắc khi hoàng hôn xuống trong những đêm mùa xuân và hè.
Thiên văn phương đông trong đó có Việt Nam gọi nó là Bắc Đẩu Thất Tinh, nó còn xuất hiện trong rất nhiều nền văn hóa, với người Mỹ nó có tên gọi “Cái Muỗng Lớn” (Big Dipper) vì hình dạng rất đặc biệt trên bầu trời.
Điểm đặc biệt của chòm Bắc Đẩu ngoài hình dạng ra chính là ở công dụng xác định phương hướng, nó giúp chúng ta xác định chính xác hướng bắc trong trường hợp khó quan sát được sao Bắc Cực (Polaris) – sao nằm tại cực bắc trong chòm Gấu Nhỏ (Ursa Minor) vốn không phải là một ngôi sao sáng lắm.
Thẳng theo cạnh gàu nối liền 2 sao β và α của chòm Gấu Lớn là chỉ thẳng hướng bắc và gấp khoảng 5 lần đoạn đó sẽ giúp chúng ta tìm đến sao Bắc Cực.
Ngoài xác định phương hướng chòm Gấu Lớn còn là một chòm sao “chìa khóa” quan trọng giúp cho những người mới quan sát bầu trời định vị được các chòm sao khác quanh nó.
Ảnh: Chòm Gấu Lớn (Đại Hùng) thường được dùng để mốc để nhận diện các chòm sao quan trọng khác.
1. Đến chòm Sư Tử(Leo): Cạnh gàu từ sao δ đến γ sẽ dẫn ta đến sao Regulus là sao sáng nhất trong chòm Sư Tử còn được gọi là trái tim của mãnh sư.
2. Đến chòm Mục Phu(Bootes): Nương theo cán gàu vẽ một đường cong ra ngoài, lấy tâm là sao Denebola là sao sáng ở đuôi của chòm Sư Tử ta sẽ nhìn thấy ngôi sao Arcturus có màu vàng cam trong chòm Bootes. Arcturus rất dễ nhận biết vì nó là sao sáng thứ 3 trên bầu trời đêm.
3. Đến chòm Song Tử(Gemini): Nối 2 ngôi sao δ và sao β, ta lại kẻ một vạch dài ra phía trước, đường ấy sẽ dẫn tới sao Castor trong chòm Song Tử. Sẽ không khó để nhận biết chòm Song Tử với hai anh em sao sáng Pollux và Castor cạnh nhau ở phần đầu của chòm.
4. Đến chòm Tiên Hậu(Cassiopeia): Từ ngôi sao ε của chòm Gấu Lớn, ta nối thẳng vào sao Bắc Cực và kẻ một đường nối đi suốt luôn sang hướng bên kia thì găp sao γ của chòm Tiên Hậu. Chòm Tiên Hậu có dạng chữ M ở phía đối diện với chòm Gấu Lớn qua sao Bắc Cực nên khi chòm Gấu Lớn bắt đầu lặn mất thì chòm Tiên Hậu mới hiện lên ở hướng đông và ngược lại.
5. Đến chòm Ngự Phu(Auriga): Ở cuối cán gàu có 2 ngôi sao là η và ζ. Ta lại nối 2 sao đó và vạch một đường kẻ dài ngang phía trên miệng gàu. Nó sẽ dẫn đến ngôi sao Capella trong chòm Ngự Phu.
Chòm Sao Thợ Săn(Orion)
Chòm sao Thợ Săn là chòm sao của mùa đông, hẳn bất kì ai trong số chúng ta cũng ấn tượng với hình dáng như chiếc nơ của nó với 3 sao thẳng hàng nằm ở thắt lưng của chàng tráng sĩ.
Ở Việt Nam trong dân gian còn có tên gọi là Sao Cày cho phần giữa của chòm vì nó giống như hình của chiếc lưỡi cày.
Trong trường ca Odyssey của Homer, chòm sao Orion là một trong những chiếc la bàn tự nhiên mà chàng Odysseus đã sử dụng trong chuyến hải trình dài dằng dặc của mình tìm đường về với quê hương.Phía dưới 3 sao thắt lưng thẳng hàng của chòm cũng là 3 đốm sáng nhỏ thẳng hàng tạo thành thanh kiếm của chàng Orion, vùng giữa chính là cụm tinh vân Orion nổi tiếng: M42, M43…
Thẳng theo hướng của thanh kiếm là gần như chính xác hướng Nam, quả là một chiếc la bàn tự nhiên tuyệt diệu.
Từ chòm Orion chúng ta có thể tìm ra rất nhiều chòm sao khác xuất hiện vào mùa đông và đều là những chòm sao sáng của bầu trời.
1- Sao Sirius và chòm Canis Major (Đại Khuyển)
Hãy kéo dài 3 sao thẳng hàng ở thắt lưng của Orion bạn sẽ gặp một ngôi sao sang xanh rực rỡ đó chính là sao Sirus trong chòm Đại Khuyển. Sirius còn gọi là sao Thiên Lang, ngoại trừ các hành tinh nó là ngôi sao sáng nhất của bầu trời đêm. Sirius cách chúng ta 8.6 năm ánh sáng.
2- Sao Procyon – Chòm Canis Minor (Tiểu Khuyển) và Tam Giác Mùa Đông
Procyon là ngôi sao sáng thứ 8 trên bầu trời cùng với Sirus và Betelgeuse (chòm Orion) tạo thành một tam giác đều với 3 đỉnh rực sáng.
3-Sao Aldebaran và chòm Taurus (Kim Ngưu) – Cụm sao Tua Rua
Aldabaran, ngôi sao có màu đỏ cam là một nhánh của chữ V- sừng bò của chòm Taurus. Nó là ngôi sao sáng thứ 13 trên bầu trời. Hãy kẻ đường thẳng từ 3 sao thắt lưu của Orion nhưng ngược hướng với Sirus để tìm ra Aldebaran.
Gần chòm Taurus có một cụm sao mờ rất nổi tiếng đó là Pleiades hay ở Việt Nam còn gọi là Tua Rua. Cụm sao này còn gọi là sao Mạ vì xuất hiện lúc sáng sớm vào đầu tháng 6 thời điểm gieo mạ.
4- Chòm Gemini (Song Tử)
Sẽ không khó xác định chòm Gemini vào lúc này( tháng 2/2008) vì đang có Sao Hỏa sáng đỏ ở trong chòm. Nhưng vào những lúc khác bạn có thể dùng sao Betelguese và thắt lưng của Orion để xác định sao hai sao Pollux và Castor trong chòm Gemini.
5- Chòm sao Auriga (Ngự Phu)
Ở trên đầu của chòm sao Orion, xuôi theo thanh kiếm về hướng bắc các bạn sẽ bắt gặp một chòm sao có hình ngũ giác đó là chòm Auriga(Ngự Phu) trong đó có sao Capella là sao sáng thứ 6 của bầu trời.
6- Lục Giác Mùa Đông
Các sao sáng của những chòm sao trên hợp thành các đỉnh của 1 lục giác gọi là Lục Giác Mùa Đông.
Đỉnh lục giác là các sao:
-Sirius: sao sáng nhất bầu trời (chòm Canis Major – Đại Khuyển)
-Rigel: sáng thứ 7 (Chòm Orion- Thợ săn)-Aldebaran: sáng thứ 13 (Chòm Taurus – Kim Ngưu)
-Capella : sáng tứ 6 (chòm Auriga – Ngự Phu)
-Pollux và Castor: sáng thứ 16 và 45 (chòm Gemini – Song Tử)
-Procyon: sáng thứ 8 (chòm Canis Minor – Tiểu Khuyển)Chòm Sao Thiên Nga – Thập Tự Phương Bắc
Chòm sao Thiên Nga (Cygnus) xuất hiện trên bầu trời vào những đêm hè với Ngân Hà tựa như dải lụa bạc vắt ngang bầu trời. Sông Ngân khi chảy qua chòm Thiên Nga thì tách ra làm hai nhánh và đây cũng là nơi Ngân Hà nhìn rõ nhất.
Chòm Thiên Nga còn có tên gọi khác là Thập Tự Phương Bắc vì hình dạng như cây thánh giá của nó đối ngược với chòm Thập Tự Phương Nam. Cũng như chòm Thập Tự Phương Nam đây là chòm sao quan trọng trong việc định hướng, đường thẳng nối sao Deneb sao sáng nhất trong chòm ở đỉnh thập tự với sao Gienah ở cạnh sẽ chỉ gần như chính xác hướng Bắc.
Tam giác mùa hèTheo dòng chảy của sông Ngân chúng ta sẽ bắt gặp tam giác mùa hè với 3 sao sáng: Vega (chòm Lyra – Thiên Cầm) , Deneb (chòm Cygnus - Thiên Nga) và Altair (chòm Aquila – Đại Bàng) với sao Altair là đỉnh nhọn hướng về phía Nam.
Mỗi năm vào tháng 7 với những cơn mưa không dứt, khiến chúng ta nhớ lại câu chuyện buồn của Ngưu Lang – Chức Nữ. Dòng sông Ngân ngăn đôi hai bờ, Ngư Lang ( sao Altair) ở bờ Tây còn nàng Chức Nữ phía bờ Đông xa hơn về phương bắc. Sao Ngưu Lang rất dễ nhận biết vì cạnh nó nằm giữa và gần như thẳng hàng với hai sao nhỏ.
Chòm Sao Crux - Thập Tự Phương Nam (Nam Thập)
Chòm sao Nam Thập gắn liền với hình ảnh của những vùng đất cực nam, hình ảnh nó xuất hiện trên lá cờ các nước của Châu Đại Dương.
Ảnh: Chòm sao Thập Tự trên lá cờ nước Úc
Trên hải trình xuôi về phương nam khám phá ra các vùng đất mới, khi qua khỏi đường xích đạo và càng dần về phương nam thì các chòm sao dùng để định hướng như Bắc Đẩu và sao Bắc Cực không còn quan sát được nữa. Lúc này chòm Nam Thập chính là chiếc la bàn tin cậy cho các nhà thám hiểm.
Khác với bắc cực, nam cực không có sao để làm mốc.Thật ra là có, đó là sao Sigma(σ) của chòm Octans (Kính bát phân), chòm sao được đặt theo tên của một dụng cụ đo góc trong thiên văn và hàng hải. Thế nhưng, với độ sáng biểu kiến là + 5.5 gần như sao Sigma Octantis cực kì khó nhận biết bằng mắt thường. May mắn thay, chòm Nam Thập cũng hữu dụng như chòm Bắc Đẩu để xác định phương hướng. Kéo dài cây thánh giá sẽ cho ta gần như chính xác hướng nam.
Chúng ta đã dạo một số chòm sao qua các chòm sao có tác dụng định hướng của bầu trời đêm. Nắm được qui luật và các đặc điểm của bầu trời sẽ khiến bạn càng yêu nó hơn. Bất cứ lúc nào bạn ra ngoài và có một bầu trời sao lấp lánh ở trên đầu, hãy đừng quên quan sát nhé !
Tài liệu tham khảo:
[1] - Hình ảnh các chòm sao http://www.dibonsmith.com/constel.htm
[2] - Orion as a guide http://www.coldwater.k12.mi.us/lms/planetarium/guide/ori-guide.html
Chú thích(1) Không hiểu tại sao từ lâu có rất nhiều người dùng tên gọi Bắc Đẩu cho sao Bắc Cực(Polaris), thậm chí là trong cả sách giáo khoa. Trong chương trình “Đường Lên Đỉnh Olympia” gần đây cũng có đáp án gọi Bắc Đẩu cho sao Bắc Cực. Đây là sự nhầm lẫn trong tên gọi.Về tên gọi Bắc Đẩu: "Đẩu" ( 斗 4nét ) có nghĩa là cái đấu, cái chén, cái vại... Bắc Đẩu ( 北斗) thực chất không phải một ngôi sao mà là một mảng sao gồm 7 sao, chúng có vị trí sắp xếp trông tựa cái xoong, cái gàu múc nước....(tức"đẩu"). Chòm bắc đẩu theo thiên văn hiện đại là 7 sao chính của chòm Gấu Lớn. Ngoài Bắc Đẩu Thất Tinh còn có tên gọi Nam Đẩu Lục Tinh là 6 sao có hình cái gàu tương tự trong chòm Cung Thủ (Sagittarius).
(2) Hiệp Hội Thiên Văn Quốc Tế – International Astronomical Union (IAU) đã chia bầu trời thành 88 chòm sao. Các tên gọi như Bắc Đẩu, Big Dipper với phần sao của chòm Gấu Lớn, hay Thần Nông đối với chòm sao Bọ Cạp chỉ là tên gọi tương ứng trong các nền văn hóa với một phần của các chòm sao theo ranh giới hiện nay. Ở tiếng Anh người ta gọi các tên dạng này là “asterism”- các chòm sao không chính thức, để phân biệt với “constellation”- các chòm sao chính thức.

Được đăng bởi Lê Trần Ngự Vũ lúc 7/11/2008 11:41:00 CH
Nhãn: Phương hướng 0 nhận xét
Tiện nghi tại trại
I. Khái quát:

Trong những hoạt động ngoài trời vài ngày như : đi cắm trại, thám du, thám hiểm… thì thủ công trại là một phần không thể thiếu, vì nó giúp cho chúng ta có được những tiện nghi trong cuộc sống ngoài trời thật dễ chịu, thoải mái và lý thú.

Ví dụ như chúng ta muốn có một giá chén để chén đĩa khô ráo hay muốn có một ghế dựa để nghỉ ngơi thì lúc này, bằng những vẫt dụng thiên nhiên và vật dụng sẵn có thì ta có thể tạo ra được nhưng thứ trên hoặc những thứ khác mà chúng ta muốn.

Thế nhưng để tạo ra những thủ công trại ấy thì chúng ta phải có được kỷ năng nhất định để sao cho một thủ công trại mà chúng ta tạo ra phải đạt yêu cầu là chắc chắn và tiện dụng chứ không phải để triển lãm. Những vật dụng dùng làm thủ công trại như: Tre, tầm vong, cây gỗ…

II. Vật liệu:1. Vật liệu đơn giản :

- Tuỳ theo điều kiện thực tế nơi cắm trại của chúng ta: Nhánh cây, thềm đá, ống tre, lon sữa,..Từ đó ta có thể thực hiện các thủ công trại đơn giản.VD: Đá làm ghế ngồi hoặc kê nấu cơm; nhánh cây tạo cổng trại chỗ quét rác..

2. Vật liệu cơ bản:

- Gậy, dây.. có nhiều kích cỡ khác nhau. Dể thực hiện các vật dụng tuỳ theo yêu cầu sử dụng.
VD : làm ghế ngồi, làm bàn ăn..
III. Phân loại: có nhiều cách1. Theo công dụng:- Trang trí: cổng trại, cột cờ, hàng rào,..- Đời sống: lều treo ,lều sàn, bếp và các phương tiện khác.- Giải trí: xích đu, cầu treo, bập bênh..
2.Theo qui mô thực hiện:- Đơn giản: sử dụng vật liệu tận dụng bằng sự suy nghĩ, sáng tạo, gia công không tốn nhiều công sức và nhiều người.VD: lấy gạch nấu cơm, làm hố chứa nước, hố rác..- Phức tạp: là những vật dụng có yêu cầu cao và mỹ thuật, kỹ thuật, thời gian, số lượng, người thi công…VD: lều liên hợp , cổng trại khối.
3.Theo hình dạng:- Mặt phẳng: ví dụ giường ngủ, băng ca, bè sông..- Khối 4 mặt: ví dụ nhà sàn, nhà vệ sinh, cột cờ di động..- Khối vuông, chữ nhật: ví dụ bàn hợp, bàn ăn, cổng trại..
IV. Các bước thực hiện một vật dụng thủ công trại:1. Các bước thực hiện:

- Vẽ thiết kế: vẽ tổng thể rồi vẽ chi tiết từng bộ phận.- Tính toán và lên bảng kê vật dụng: vật dụng nào cần thiết ưu tiên.- Chuẩn bị vật liệu.- Phân công chi tiết từng bộ phận thực hiện.- Ráp tổng thể các chi tiết.

2. Một số lưu ý khác:- Ráp mặt đứng trước, mặt ngang sau.- Bổ sung kỹ thuật: đầy đủ các eke để chịu các góc vuông.- Mặt chân đế phải đạt yêu cầu phù hợp với vật dụng.- Sử dụng kỹ thuật nút dây đúng chỗ và chính xác.- Thủ công trại được thực hiện: thi công nhanh dễ tháo gỡ.
Liên Đội giới thiệu các bạn đội viên một số hình ảnh mô hình của những tiện nghị tại trại đã được làm để tham khảo. Chúc các bạn có thêm được những tư liệu phục vụ sinh hoạt dã ngoại của mình.Trong các kỳ trại ngoài việc dựng cổng và cột cờ thì phần thực hiện các tiện nghi tại trại cũng khá thú vị. Bằng những vật liệu thô sơ, các bạn làm nên nào là ghế, bàn ăn, hố nước...





XEM 1 SỐ HÌNH ẢNH VỀ THỦ CÔNG TRẠI

Được đăng bởi Lê Trần Ngự Vũ lúc 7/11/2008 08:20:00 CH
Nhãn: Thủ công trại 0 nhận xét
CỔNG TRẠI

Trong những kỳ trại ta thường thiết kế cổng trại với ý nghĩa là giới thiệu cho các bạn biết về đơn vị mình và để biểu diễn những kỹ năng kỹ thuật trại. Cổng trại là 1 trong 4 phần của thủ công tại trại là cổng, cột cờ và kỳ đài, cầu qua sông và tiện nghi trại.

Cổng trại lớn hay nhỏ, thủ công hay hiện đại... đều phụ thuộc quy mô của trại và số lượng trại sinh tham gia, không thể có 1 cổng hoành tráng chỉ để sử dụng cho 20 người hay ngược lại.

Các bước cơ bản để thực hiện cổng trại cho đội nhóm của mình là:

1. Phác thảo cổng trại, sau đó vẽ chính xác bằng phương pháp vẽ kỹ thuật (bao gồm tỷ lệ tương ứng, diễn họa màu sắc...). Chúng ta có thể vẽ bằng chì, màu mước, bút lông... Tuy nhiên hiện nay ta có thể ứng dụng một số phần mềm vẽ như Coreldraw, Paint, Photoshop... để tăng tính hiện đại và dễ dàng hiệu chỉnh.

2. Tính toán và dự trù kinh phí:

- Tính toán số lượng cây tre, tầm vông theo kích thước bản vẽ.

- Tính toán những vật liệu trang trí thêm như, mẹt, bảng tên, cờ phướng, cờ nước, dải lụa... hay pa-nô trang trí khác.

- Tính phương án chịu lực cho cổng trại như: dựng trên đâu? (đất, xi-măng, cát...) căng bằng gì? (dây dù, đóng đinh, chôn xuống đất...)

- Ngoài ra, các bạn có thể làm cổng trại mình đẹp hơn bằng việc thiết kế dàn đèn để chiếu sáng ban đêm, hay dàn âm thanh để phát thanh những bài hát cộng đồng, liên lạc trại sinh...

- Lên bảng dự trù kinh phí để thực hiện theo khả năng của đơn vị.

3. Thi công cổng trại:

- Phân công công việc cho những trại sinh tham gia dựng cổng. Ai làm gì? (dựng cổng, treo cờ, đi dây điện đèn,...)

- Xác định vị trí cổng trại phải thuận tiện và là nơi ra vào chính của trại sinh.

- Sử dụng các nút dây ứng dụng traong thủ công trại để thực hiện cổng trại như: nút tháp dài, tháp chữ thập... Riêng đối với những cổng hiện đại thì lưu ý dụng cụ cần thiết như: búa, đinh, súng bắn kim,...

Xin giới thiệu đến các bạn một số mô hình và thực tế các cổng trại để tham khảo (tài liệu được sưu tầm từ nhiều nguồn trên internet).





THAM KHẢO HÌNH ẢNH CỔNG TRẠI THỰC TẾ :

Được đăng bởi Lê Trần Ngự Vũ lúc 7/11/2008 07:47:00 CH
Nhãn: Thủ công trại 0 nhận xét
Thứ hai, ngày 30 tháng sáu năm 2008
CẤP CỨU
Khi cấp cứu nơi hoang dã, đòi hỏi các bạn phải có sự linh động, óc sáng tạo và một kiến thức đa dạng, vì ở đó, các bạn thiếu thốn mọi phương tiện, dụng cụ, thuốc men. Các bạn cũng vừa là cứu thương viên, vừa là y sĩ điều trị, cho nên trách nhiệm của các bạn nặng nề hơn.

* Chăm sóc vết thương:
Đừng để cho vết thương bị nhiễm trùng, đừng để cho ruồi bọ đậu vào, nhất là loại ruồi rừng (loại này không đẻ trứng mà đẻ trực tiếp ra ấu trùng là những con giòi, lớn rất nhanh, đục khoét vết thương của các bạn).

* Sát trùng vết thương:
Rửa vết thương bằng nước đun sôi để nguội với xà phòng (nếu có).

Hay với dung dịch nấu sôi: Tô mộc + Hoàng đằng + Phèn chua + nước (nếu có thể).

Hay với dung dịch: lá Trầu không còn tươi + phèn chua + nước.

Hoặc nấu nước với một trong những loại cây thuốc sau: cây Cỏ hôi, cây Sầu đâu, Chó đẻ...Đắp tươi các cây thuốc như: Dâm bụt, Ké hoa vàng (cỏ chổi), lá Móng tay, Liên kiều, Ba chạc, lá Trầu không...

* Điều trị vết thương: bằng cách đắp một trong các cây thuốc sau:

- Lá mỏ quạ tươi, bỏ cọng, rửa sạch giã nát đắp lên. Lúc đầu, rửa (bằng các dung dịch kể trên) và thay băng hàng ngày, sau 3-5 ngày, nếu thấy vết thương đã nhẹ thì hai ngày thay băng một lần.

- Lá cây Bông ổi (cứt lợn) giã nát đắp lên, vừa cầm máu, vừa sát trùng và mau lên da. Hoặc giã nát vỏ và lá Bời lời nhớt, Tơ mành, Ké hoa vàng, Hạ khô thảo, Cải trời, Chó đẻ. Rau diếp cá, Thuốc bỏng (sống đời), Thuốc giấu, lá Thường sơn...

Khi vết thương đã sạch, đang trong giai đoạn phát triển tổ chức hạt nhưng không đều, cần bôi một trong các loại thuốc sau: Nghệ già, củ ráy (chóc), Dầu mè, Sáp ong...

Cầm máu

Khi bị một vết thương chảy máu, các bạn phải nhanh chóng tìm mọi cách làm ngưng chảy máu, để hạn chế mất máu nhiều có thể gây choáng nặng dẫn đến tử vong.

* Đứt tĩnh mạch, động mạch nhỏ hay mao quản: Trường hợp này, máu chảy tràn ra ít thì vết thương tự cầm máu. Nếu máu chảy nhiều thì hãy đắp một trong những loại thuốc sau đây rồi băng ép lại:

Giã nát và đắp lên vết thương một trong các cây thuốc sau: Thuốc bỏng (sống đời), Thuốc giấu, Bông ổi, Huyết dụ, Tam thất, Bách thảo sương (nhọ nồi), Bại hoại (móng rồng), Cà kheo (sừng hươu, sống đời lá rách), rau Cần (cải rừng tía), Củ chóc (bán hạ Nam, Ráy), Quế rành (Trèn trèn, Quế trèn), Tai hùm, Thài lài trắng, Tu hú trắng...Giã nát và vắt nước uống các cây: nhọ nồi, nghể...

Theo kinh nghiệm dân gian, người ta còn cầm máu bằng các chất liệu như tóc, lông, mạng nhện, thuốc rê... tuy hiệu nghiệm nhưng không bằng dùng cây cẩu tích.Cây cẩu tích:
Còn gọi là cây lông cu li, kim mao cẩu tích, cẩu tồn mao, cây lông khỉ, (tên khoa học là cybotium barometz). Có nhiều ở Bạch Mã (Thừa Thiên), Đà Lạt... Các bạn hãy tìm kiếm hoặc mua một gốc cẩu tích (hình bên) rồi vặt lông tẩm cồn 90o phơi khô. Khi gặp vết thương máu ra nhiều thì lấy đắp vào vết thương rồi băng ép lại, máu sẽ cầm rất nhanh.Cây cẩu tích sẽ ra lông trở lại nếu các bạn phun rượu trắng vào gốc rồi mang để vào nơi thoáng mát.

* Đứt động mạch quan trọng: Trường hợp máu chảy màu đỏ tươi, phun thành tia theo nhịp tim, hoặc trào mạnh ra ngoài theo vết thương. Các bạn phải nhanh chóng sử dụng một trong những biện pháp sau:

1. Ấn chặn vết thương:

Dùng những cây thuốc và vị thuốc như đã nói trước, đắp lên vết thương, rồi dùng tay, băng hay khăn sạch ấn mạnh vào vết thương. Giữ chặt cho đến khi máu ngưng chảy. Nếu máu chưa cầm được, hãy nâng cao phần bị thương lên càng cao càng tốt. Nếu cần thì buộc (hơi nhẹ) thêm ga rô.



2. Ấn chặn động mạch:

Là dùng ngón tay, nắm tay ấn mạnh vào động mạch, giữa vết thương và tim. Đó là những nơi mà các động mạch chính chạy chéo trên xương. Động mạch giữa ngón tay và nền xương làm máu phải ngừng chảy. ấn chận động mạch là biện pháp cầm máu tạm thời và rất hiệu nghiệm, nhưng có nhược điểm là không thể làm lâu vì mỏi tay.
* Các điểm ấn chận động mạch: (xem hình)
- Động mạch thái dương: để cầm máu đỉnh đầu.- Động mạch dưới mang tai: để cầm máu ở mặt.
- Động mạch cảnh ở cổ: để cầm máu vùng đầu.
- Động mạch dưới xương đòn: để cầm máu vùng nách và cánh tay.
- Động mạch cánh tay trong: để cầm máu từ vùng cẳng tay trở xuống.
- Động mạch ở háng và đùi: để cầm máu từ vùng đùi trở xuống.


Sau khi ấn chận động mạch, các bạn nên đắp các loại thuốc cầm máu vào vết thương và băng ép lại thật chặt. Sau đó, nới tay ra từ từ, nếu thấy máu còn chảy thì lập tức ấn chặn trở lại.Cho uống thêm bài thuốc cầm màu có 02 vị chính là:

- Tô mộc

- Nghệ vàng

Tùy theo trường hợp mà gia thêm các vị thuốc khử ứ, hoạt huyết như Tam thất, Tóc đốt, Bồ hoàng.

3. Đặt garô (garrot):

Là một phương pháp cầm máu hữu hiệu nhưng rất nguy hiểm, cần theo dõi một cách cẩn thận khi áp dụng.Lấy một sợi dây chắc, không đàn hồi (cà vạt, khăn tay, khăn quàng...) cột một vòng quanh đùi, hay cánh tay, phía trên vết thương (giữa vết thương và tim) chừng 10cm. Dùng một cây thước kẻ hoặc một đoạn cây ngắn, nhỏ, xỏ ngang và xoắn lại. Trước khi xoắn, các bạn nên đệm vào điểm muốn nén một vật hơi cứng (viên sỏi bọc vải, khăn tay cuộn lại...) mục đích là để cho vật đó đè xuống mạch máu, khiến cho máu không lưu thông được. Các bạn xoắn cho đến khi thấy máu ngưng chảy thì dùng dây mềm cột que vào cánh tay hay đùi.

Có thể đặt ga rô với một sợi dây có tính đàn hồi (ống cao su mềm): Căng thẳng dây ra, quấn hai vòng quanh cánh tay hay chân rồi siết lại.



NGUYÊN TẮC ĐẶT GA RÔ:

- Đặt trên vết thương độ 10cm, lộ ra ngoài, dễ thấy.

- Đắp các loại thuốc cầm máu và sát trùng ở vết thương.

- Khoảng 15 phút thì từ từ nới lỏng ga rô một lần, nếu thấy máu còn chảy thì siết ngay lại.

GHI NHỚ: Ga rô chỉ nên dùng khi không còn biện pháp nào khác và phải chấp hành đúng quy định về ga rô, vì nếu không sẽ dẫn đến chết hoàn toàn đoạn chi đó, phải cắt bỏ.

MỘT SỐ BÀI THUỐC CẦM MÁU

BÀI SỐ 1:

Công thức: Bột sâm đại hành (không hạn chế liều lượng).Tác dụng: Cầm máu, tiêu ứ máu, giảm sưng đau, lên da nonThích hợp: Cầm máu động mạch và tĩnh mạch, điều trị các vết thương phần mềm.Chế biến: Dùng củ đã cắt bỏ rễ và thân, rửa sạch, thái mỏng, phơi hay sấy thật khô, tán thành bột thật nhỏ, rây mịn, cho vào chai hoặc túi nylon thật kín để nơi khô ráo.Cách dùng: Rắc thuốc cầm máu lên cho kín vết thương, sau khi đã sát trùng, đặt gạc hay vải sạch lên vết thương, băng ép chặt. Mỗi ngày thay thuốc một lần.

BÀI SỐ 2:

Công thức:

- Cỏ nhọ nồi (cỏ mực) sao cháy đen 100gr

- Lá chuối hột khô sao cháy đen 100gr

- Than tóc 100gr

Tác dụng: Cầm máu, tiêu sưng, sinh da nonThích hợp: Cầm máu động mạch và tĩnh mạch, điều trị các vết thương phần mềm.

Chế biến:

- Cỏ nhọ nồi cắt bỏ rễ, rửa sạch, phơi khô, thái nhỏ, sao đen (tồn tính)

- Lá chuối hột rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô, sao đen (tồn tính).

- Tóc rửa bằng nước bồ kết, sấy khô rồi đốt cháy thành thanBa thứ trên liều lượng bằng nhau, tán nhỏ, rây mịn. Đựng vào chai lọ hay túi nylon hàn kín. Bảo quản nơi khô ráo.

Cách dùng: Như bài số 1.

BĂNG BÓ:

Để che chở vết thương hay để cầm máu hoặc để giữ êm chỗ bị thương trong trường hợp gãy xương, chúng ta cần biết một số phương pháp băng bó.

* Cách băng bằng băng cuộn:



VÀI ĐIỀU CẦN LƯU Ý:

1. Với những vết thương nhẹ, cần đắp thuốc cầm máu và sát trùng rồi mới băng lại.
2. Kỹ thuật băng bó còn tùy thuộc vào phần cơ thể bị thương, với yêu cầu: kín = phải bao bọc kín vết thương. Gọn và chắc = không quá chặt khiến cho máu không lưu thông được, không sút sổ khi cử động.3. Khi cần cầm máu, phải ép băng đủ chặt.
* Cách băng bằng loại băng tam giác:
Là loại băng vải hình tam giác vuông cân, mỗi cạnh góc vuông khoảng 80 đến 90cm. Có thể sử dụng khăn quàng, khăn vuông xếp lại, miếng vải... Dùng để băng bó, treo tay, cố định xương gãy hoặc xếp lại thành băng cà vạt.

GÃY XƯƠNG:
Ở trong vùng hoang dã, nơi mà thuốc men và dụng cụ y tế thiếu thốn mà bị gãy xương thì thật là thảm họa, cho nên các bạn cần phải thật thận trọng trong lúc làm công việc, cũng như khi di chuyển, cố gắng tránh mọi trường hợp có thể dẫn đến những tai nạn, thương tích... Dĩ nhiên không ai muốn nó xảy ra, nhưng nếu có thì các bạn cũng cần bình tĩnh để tìm cách vượt qua. Các bạn hãy nhớ rằng, cho dù tình hình có tồi tệ đến đâu đi nữa, thì chúng ta cũng có thể khắc phục. Khả năng sinh học tự vệ của con người kỳ diệu hơn chúng ta tưởng rất nhiều.
Có 4 trường hợp gãy xương có thể xảy ra:
1. Nghi ngờ gãy xương.
2. Gãy xương kín
3. Gãy xương hỡ
4. Bể xương
Trong mọi trường hợp gãy xương, điều quan trọng nhất là các bạn phải làm bất động ngay tức khắc phần cơ thể có xương bị gãy. Tuy nhiên, vì các bạn đang ở nơi hoang dã, các bạn là cứu thương viên và chính các bạn cũng là y sĩ điều trị, cho nên trước khi cặp nẹp bất động phần cơ thể bị gãy, bằng trực giác, sự cảm ứng và óc phán đoán, các bạn cố gắng sắp làm sao cho hai đầu xương nối với nhau cho thật thẳng (cho dù có làm cho nạn nhân đau đớn), rồi mới băng cứng lại (nếu có vết thương rách da chảy máu, thì để trống chổ đó để xử lý).
Trong những trường hợp này, nạn nhân có thể bị choáng vì quá đau đớn. Các bạn cố gắng thao tác thật nhanh mọi công đoạn như: cố định xương gãy, băng bó sớm, cầm máu nhanh, ủ ấm chống lạnh, cho uống trà nóng, nước đường, cà phê đậm (nếu có)... đặt nằm chân cao hơn đầu, làm cho nạn nhân được tiện nghi, vui vẻ, an ủi động viên tinh thần nạn nhân.
Cho nạn nhân uống những loại cây lá có tính chất an thần, gây ngủ như: Vông nem, Lạc tiên (chùm bao), Ba gạc, trái thuốc phiện khô... hay quấn lá Cà dược rồi hút như hút thuốc để giảm đau, nhưng nếu thấy có triệu chứng ngộ độc thì phải ngưng ngay.
* Làm thế nào để cố định xương gãy?
Dùng những dụng cụ có thể làm nẹp như mảnh ván, cành cây, vỏ cây... tuy nhiên, khác với cấp cứu là các bạn có thể chọn bất cứ vật gì để nẹp. Ở đây các bạn phải chọn lựa cẩn thận, vì khi đã nẹp vào rồi thì rất lâu mới được tháo ra, cho nên nẹp phải có những tiêu chuẩn sau:
- Kích cỡ phải phù hợp với phần cơ thể định nẹp.
- Chất liệu không gây dị ứng cho da của nạn nhân.
- Vật liệu phải sạch sẽ, bền chắc.(Nếu có thể thì nên dùng vỏ cây gạo để bó chỗ xương gãy, vì vỏ cây gạo có tính chất liền xương).
Trước khi nẹp để làm bất động nơi vết gãy, các bạn hãy đệm chung quanh vết thương (nhất là những chỗ có mấu lồi của xương như mắt cá, cùi chõ, cánh tay...) bằng những vật liệu êm và sạch như bông gòn, khăn tay, áo quần, chăn mền... Làm như vậy để khi chúng ta nẹp cứng lại không làm cho nạn nhân bị đau đớn, khó chịu.
Khi bị gãy xương hở, cần phải sát trùng vết thương thật sạch trước khi kéo nắn về vị trí cũ.
CỐ ĐỊNH XƯƠNG GÃY:
* Gãy xương bàn tay hoặc khớp cổ tay:
- Đặt một cuộn băng hoặc một cuộn vải vào lòng bàn tay, sau khi sửa lại các phần xương gãy.
- Đặt một nẹp từ bàn tay đến quá cổ tay (cho hơi thừa ở đầu bàn tay).
- Đắp thuốc, dùng băng cố định bàn tay, cẳng tay vào nẹp.
- Treo cẳng tay bằng băng tam giác hay băng thường.

* Gãy xương cẳng chân:
Các bạn thao tác như cách làm đối với gãy xương cánh tay và cẳng tay. Khi cần thiết phải di chuyển thì phải dùng thêm một cặp nạng..

* Gãy xương cánh tay, cẳng tay:

Sau khi kéo xương vào đúng vị trí cũ, sửa cho thật thẳng, rồi đắp thuốc lên, dùng nẹp ép hai bên theo chiều dài xương, dùng băng, dây, vải, khăn... cột lại để cố định. Nếu cần thì treo tay hoặc băng ép vào người bằng băng tam giác, băng thường, mảnh vải...* Gãy xương đùi:
Nếu bị gãy xương đùi, đòi hỏi chúng ta phải có một sự chăm sóc đặc biệt và cẩn thận. Tuyệt đối không nên di chuyển nếu không thật cần thiết.Trường hợp này, khi bó nẹp, chúng ta phải bó dài luôn cả phần cẳng chân như hình dưới đây.Ghi chú: Những phương pháp bó nẹp cố định xương gãy như trên, chỉ dùng tạm thời trong khi chờ di chuyển nạn nhân đến bệnh viện, nếu các bạn đang ở trong vùng hoang dã, không liên lạc được với xã hội thì sẽ dùng những phương pháp hướng dẫn sau:
NẮN LẠI CÁC XƯƠNG GÃY
Trước khi nẹp và bó thuốc để cố định đoạn xương gãy, các bạn phải tìm cách nắn lại các xương gãy (thật ra, công đoạn này là dành cho các nhà chuyên môn ở bệnh viện hay các trạm y tế, nhưng ở nơi hoang dã thì chính các bạn phải tự xoay trở lấy, cho dù đôi khi nó không được hoàn hảo lắm, nhưng còn hơn là không làm gì).
Nếu các xương có vẻ ít nhiều ở tư thế đúng, không thấy biến dạng thì tốt hơn là đừng di động chúng, cứ để yên như thế mà đắp thuốc và nẹp cố định.
Nếu các xương rõ ràng ở tư thế không đúng, chỗ gãy biến dạng...
Nếu chỗ gãy còn mới, các bạn nên nắn hay kéo cho thẳng trước khi bó (tuy rất đau đớn, nhưng các bạn hãy động viên nạn nhân cố gắng chịu đựng, vì xương càng nắn sớm bao nhiêu thì càng dễ dàng và ít đau hơn bấy nhiêu).
* Làm thế nào để nắn xương cổ tay bị gãy?
Cần có 2 người để thao tác thì dễ dàng hơn. Trước tiên, các bạn dùng khăn hay vải cột lõng cánh tay nạn nhân vào một gốc cây hay một trụ cố định. Một người nắm bàn tay nạn nhân kéo mạnh và dứt khoát trong khoảng từ 5-10 phút, để các đầu xương gãy giãn ra và chạm đầu với nhau. Người thứ hai nhẹ nhàng nắn lại các đầu xương cho ngay ngắn.

* Bao lâu thì các xương gãy liền lại?

Chỗ gãy càng nặng, nạn nhân càng già thì sự bình phục càng chậm. Trẻ em thì liền một cách nhanh chóng hơn. Xương cánh tay thì khoảng một tháng, xương cẳng chân cần giữ độ 2 tháng.
MỘT SỐ BÀI THUỐC CHỮA GÃY XƯƠNG
Có rất nhiều bài thuốc chữa gãy xương nhưng ở đây chúng tôi chỉ chọn một số bài thuốc giản dị, dễ tìm kiếm, dễ chế biến, dễ sử dụng.

Có 2 loại: Thuốc bó ngoài và thuốc uống trong.
BÀI SỐ 1: Thuốc bó bột ngoàiCông thức:- Bột củ nâu 1kg- Cơm nếp đủ bó vết thương
Tác dụng: Hành huyết, tiêu sưng, giam đau, liền xương.

Chế biến: Củ nâu (nâu nhựa tốt hơn nâu đỏ) gọt vỏ thô, thái mỏng, phơi hoặc sấy khô, tán bột, bỏ vào chai hoặc bao nylon hàn kín, bảo quản nơi khô ráo.

Cách dùng: Cứ 100gr cơm nếp nấu hơi nát thì cho 20gr bột củ nâu, hai thứ giã đều, khi cơm còn nóng dạt thành một bánh dài đủ bó chỗ gãy, dàn thuốc lên giấy dầu hay vải gạc hoặc lá chuối, bó vào chung quanh chỗ gãy, đặt nẹp, băng cố định cho thật chặt, hai ngày thay thuốc một lần. Nếu không có bột củ nâu khô thì dùng củ nâu tươi thái mỏng, giã cho thật nhỏ, trộn với cơm nếp như trên.
BÀI SỐ 2: Lá cây thanh táo tươi
Công thức: Lá và đọt non của cây thanh táo (còn gọi là tiếp cốt thảo, trường sinh thảo)

Tác dụng: Thanh nhiệt, tiêu viêm, hành huyết, giảm đau, liền xương.Chế biến: Lá và đọt non (bỏ cành và cuống), rửa sạch, giã nhỏ.Cách dùng: Bỏ thuốc vào chỗ gãy, đặt nẹp, băng cố định thật chặt. Khi đã ổn định, mỗi ngày thay thuốc một lần.
BÀI SỐ 3: Vỏ cây tươiCông thức:- Vỏ cây gạo tươi 60%- Vỏ cây núc nác tươi 40%
Tác dụng: thanh nhiệt, tiêu viêm, hành huyết, giảm đau. Chủ trị gãy xương, sai khớp, tụ máu, chấn thương.

Chế biến và sử dụng: Vỏ hai loại cây trên (liều lượng đủ dùng, nhưng phải theo tỉ lệ trên) lấy về gọt bỏ lớp vỏ thô bên ngoài, rửa sạch, thái mỏng, giả thật nhuyễn, bó vào chỗ gãy. Cách băng bó như các bài trên. Hai ngày thay thuốc một lần.

Ghi chú: Nếu không có vỏ núc nác thì dùng 100% vỏ cây gạo cũng rất hiệu quả.

BÀI SỐ 4: Lá cây tươi

Công thức: Lá cây tơ mành

Tác dụng: thanh nhiệt, tiêu viêm, sát trùng. Chủ trị gãy xương, chấn thương, sưng tấy, các vết thương ngoài da.

Chế biến và sử dụng: Lá cây tơ mành (còn gọi là mạng nhện, dây chỉ) hái tươi, rửa sạch, giã nát, bó như các bài trên.

BÀI SỐ 5: Thuốc rượu (thuốc uống)

Công thức:

- Nhựa cây si 50cc

- Rượu trắng 40 độ 150cc (3/5 xị)

Chủ trị: Chấn thương, gãy xương, sai khớp, tụ máu, sưng đau.Chế biến và sử dụng: Nhựa si và rượu hòa lẫn cho tan. Người lớn uống mỗi ngày một liều, chia làm 3 lần. Thiếu niên dưới 15 tuổi uống nửa liều.

Chú ý: Nếu không có nhựa si thì dùng tua si (là những sợi từ trên cành rũ xuống), cắt khoảng 100gr tua còn non cho vào ấm nước đun sôi thật kỹ rồi hòa với rượu uống lúc còn ấm.

BÀI SỐ 6: Thuốc sắcCông thức:
- Củ nghệ già 20gr
- Vỏ cây gạo 20gr- Rễ cỏ xước 15gr- Rễ lá lốt 15grChủ trị: Gãy xương, bong gân, sai khớp, sưng đau, chủ yếu dùng khi tổn thương 2 chi dưới.Chế biến và sử dụng:- Củ nghệ thái mỏng, phơi khô, sao qua- Vỏ cây gạo gọt bỏ vỏ thô, thái mỏng, sao qua
- Rễ cỏ xước và lá lốt rửa sạch, thái ngắn, không sao.Cho tất cả vào ấm, sắc 2 nước, mỗi lần đổ 3 chén nước sắc, còn một chén. Hai nước hòa lại chia làm 3 lần uống trong ngày. Mỗi ngày uống một thang. Khi uống có thể pha thêm rượu càng tốt.CHẤN THƯƠNG SAI KHỚP
Khi bị va chạm hay chấn thương mạnh bất thường làm cho đầu xương trật ra khỏi ổ khớp một phần hay toàn bộ, làm cho khớp không hoạt động được.Khi bị sai khớp, bao khớp có thể bị rách nhiều hay ít, dây chằng bị đứt, rách hoặc bong ra, các cơ và mạch máu ở vùng ổ khớp cũng bị tổn thương.* Triệu chứng:- Đau nhức liên tục, lúc đầu đau nhiều, về sau lần lần đau ê ẩm, khi chạm vào khớp thì đau dữ dội.- Không thể cử động được hoặc cử động khó khăn.- Ổ khớp biến dạng, sờ thấy đầu xương bật ra ngoài ổ khớp...- Chung quanh sưng vù, tím bầm...* Điều trị: Nên tìm cách điều trị ngay, để càng lâu càng khó khăn. Chủ yếu là phải dùng phương pháp nắn đưa ngay đầu xương trở lại ổ khớp và bó thuốc tiêu sưng, giảm đau và cố định khớp.Tránh dùng sức mạnh ở khớp xương đó một thời gian đủ để cho khớp khỏi hẳn.CÁC PHƯƠNG PHÁP NẮN SAI KHỚP1. Nắn sai khớp xương cổ:Để nạn nhân ngồi thẳng đầu, người cứu thương đứng phía sau, hơi rùn xuống. Hai đầu gối áp chặt vào hai cạnh sườn để giữ chắc nạn nhân. Hai tay ôm đầu nạn nhân nâng lên và xoay đi xoay lại nhè nhẹ và lựa chiều xoay mạnh đưa vào khớp.2. Nắn sai khớp xương vai:
Để nạn nhân nằm ngửa dưới đất, người cứu thương nằm xuống bên cạnh nạn nhân (phía bị sai khớp). Để gót chân của bạn vào nách nạn nhân làm điểm tựa và hai tay kéo mạnh tay nạn nhân với một lực đều đặn trong vòng từ 5-10 phút. Sau đó bỏ chân ra và khép cánh tay vào người của họ, nếu nghe một tiếng “cụp” là xương đã vào ổ khớp. Tiến hành bó thuốc và băng cố định.Sau khi khớp vai đã vào vị trí, nên bó cánh tay chặt vào chân. Giữ như vậy trong một tháng cho khớp không trật lại một lần nữa. Để để phòng khớp vai bị liệt cơ, mỗi ngày nên tháo ra vài lần, mỗi lần vài phút. Khi tháo ra, nên khẽ di động cánh tay nhẹ nhàng theo những vòng tròn hẹp.
3. Nắn sai khớp xương khủy tay:
Để nạn nhân nằm dưới đất, dùng một cái khăn hay miếng vải cột ở giữa cánh tay bị sai khớp, giao cho một người kéo lại hoặc buộc vào một gốc cọc.Cần 2 người để thao tác: người phụ dùng tay phải nắm ngón tay cái, tay trái nắm 3 ngón giữa của nạn nhân, vừa kéo xuống vừa đưa dần khuỷu gấp vào thành góc 90o.Người nắn ở phía sau khuỷu, dùng 2 ngón tay ấn trực tiếp vào mỏm khuỷu, vừa ấn xuống dưới vừa đẩy ra phía trước, đồng thời các ngón tay giữa ấn vào phía trước, kéo dần đầu dưới xương cánh tay ra sau đưa vào ổ khớp.4. Nắn sai khớp xương cổ tay:
Để nạn nhân ngồi đặt tay lên bàn, một người ngồi phía sau nạn nhân, hai tay nắm chặt cổ tay nạn nhân vừa kéo về phía sau vừa kềm cứng. Người nắn nắm bàn tay vừa kéo vừa lựa chiều đưa vào khớp rồi bó thuốc, băng cố định.

Các khớp khác như háng, đầu gối, cổ chân... phương pháp nắn cũng tương tự như trên, các bạn nên linh động mà thao tác.
Trường hợp bị sai khớp xương hay bong gân ở cổ chân, nếu cần đi lại, các bạn hãy sử dụng một đoạn tre một đầu có mắt, cắt theo hình bên để làm nẹp cố định, giúp đi lại mà không làm thương tổn thêm (nên đi kèm theo nạng)
CÁC BÀI THUỐC TRỊ SAI KHỚP VÀ BONG GÂN
Bong gân cũng là thương tổn do chấn thương mạnh trực tiếp hay gián tiếp vào khớp, nhưng không làm sai khớp hay gãy xương, mà chỉ có thương tổn các bao hoạt dịch, bao khớp và các dây chằng.
Triệu chứng: Chủ yếu là sưng đau, bầm tím, cử động hạn chế.Các bài thuốc bó ngoài dùng để điều trị gãy xương đều có thể dùng cho bong gân hoặc sai khớp.Kinh nghiệm về điều trị chấn thương, sai khớp, bong gân thì khá phong phú. Chúng tôi đưa ra một vài bài đơn giản.Bài số 1: Lá hay quả cây Ngái tươiChế biến và sử dụng: Quả hay lá cây Ngái liều lượng vừa đủ dùng, rửa sạch, giã nhỏ, cho ít rượu vào, sao chín, đổ ra vải xô, túm lại chườm vào chỗ đau (chú ý chườm nhanh tay để khỏi bị phỏng). Khi nguội đem ra sao lại cho nóng rồi chườm tiếp. Làm đi làm lại vài ba lần. Sau đó, khi thuốc còn ấm thì dàn mỏng bó vào chỗ sưng, băng cố định. Mỗi ngày thay thuốc một lần.Bài số 2: Cây Bớp bớpChế biến và sử dụng: Dùng đọt non và lá rửa sạch, giã nhỏ, đem sao chín rồi cũng chườm và đồ như bài số 1. Mỗi ngày thay thuốc một lần.ĐIỀU TRỊ MỘT SỐ BỆNH THÔNG THƯỜNGNgười ta có thể chữa hầu hết các bệnh thông thường lúc mới phát sinh bằng một toa thuốc duy nhất gọi là:
TOA CĂN BẢN:
Gồm 10 vị thuốc
- Rễ cỏ tranh 8g2
- Rau má 8g3 - Cỏ mực 8g4
- Cỏ mần chầu 8g5

- Cam thảo đất 8g6

- Ké đầu ngựa 8g7

- Lá muồng trâu 4g8

- Củ sả 4g9

- Vỏ quít 4g10

- Gừng tươi 3 lát

10 vị thuốc trên rất dễ tìm kiếm, tuy nhiên nếu không có, chúng ta có thể thay thế một số vị mà hiệu quả vẫn không thay đổi.

Thí dụ:

- Nếu không có Muồng trâu, các bạn có thể thay thế bằng vỏ cây Bông sứ, hạt Bìm bìm, cây Chút chít

- Nếu không có Rễ tranh, có thể dùng Mã đề, Râu bắp, vỏ trái Cau, Dứa dại, Trạch tả.

- Nếu không có Rau má, có thể thay thế Râu mèo, Actisô, Nhân trần, Dành dành, Mướp, Cúc tần.

- Nếu không có Cỏ mực, có thể dùng Huyết kê đằng, Sâm đại hành, lá Huyết dụ.

- Nếu không có Cam thảo đất thì dùng Cam thảo dây, Mía.

- Nếu thiếu cỏ mần chầu thì thay bằng lá Dâu tằm, Dây kim ngân.

- Nếu thiếu Ké đầu ngựa thì dùng Ké hoa đào, Ké hoa vàng, Ô rô nước

- Nếu thiếu vỏ Quýt thì thay bằng vỏ Cam, vỏ Chanh, vỏ Bưởi.

- Nếu thiếu củ Gừng thì dùng củ Riềng- Nếu thiếu củ Sả thì dùng củ Bồ bồ (Xương bồ).

Tất cả các vị trên tổng cộng khoảng 60g. Cho thêm vào khoảng hơn một lít nước, đun sôi trên lửa cho đến khi còn lại chừng một chén rưỡi nước thì rót ra chia làm 3 phần, uống vào sáng, trưa, và chiều tối, mỗi lần uống một phần.

Toa căn bản là một đơn thuốc gốc, dùng làm nền tảng, rồi thêm hay bớt vị hoặc liều lượng là tùy theo những triệu chứng của bệnh nhân cũng như kinh nghiệm của người thầy thuốc.

PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÓ

Khi mà các phương tiện vật chất cũng như thuốc men thiếu thốn như trong các vùng hoang dã, thì có lẽ đánh gió là phương pháp chữa bệnh khả thi và hiệu quả nhất. Đánh gió đúng cách, các bạn có thể chữa trị các bệnh thông thường như: trúng gió, cảm nắng, cảm lạnh, ói mửa, tiêu chảy, đau nhức, mệt mỏi...

* Kỹ thuật:

- Đánh nóng từ một chỗ rồi loang dần theo hệ thống thần kinh như là gáy, đầu, ngang hai vai: Trị sổ mũi, làm cho cổ họng giảm bớt buồn nôn.

- Đánh gió khoảng giữa sống lưng: Làm giảm đau bao tử.

- Đánh từ lưng quần xuống xương khu: Làm bớt đau bụng tiêu chảy, bớt đau bụng quặn.

- Áp dụng cho những trẻ em có triệu chứng: quấy phá, khó chịu, chân tay lạnh, mất ngủ, ăn không tiêu, đau bụng, khóc dai dẳng hàng giờ, toát mồ hôi lạnh... (nhưng không được đánh gió khi nghi ngờ trẻ bị sốt xuất huyết).

* Phương pháp:

- Chỗ đánh gió: thoáng mát nhưng không lộng gió

- Tư thế: Nằm sấp, vén áo (không cần cởi)

- Dụng cụ: dầu cù là, dầu nóng, lát gừng

- Cách đánh: Lúc đầu là nhẹ trên mặt da, rồi càng lúc càng mạnh dần (nhưng không nên làm đau), xoa nhẹ khắp lưng, vuốt mạnh hai bên sống lưng, băm băm dài theo xương sống, cuối cùng xoa nhẹ khắp lưng, thời gian từ 5-10 phút (trung bình là 10 phút, nếu ngắn hơn thì ít kết quả, nếu lâu hơn thì cũng tốt).

* Lưu ý:
- Người đánh gió nên nhớ rằng: nếu đánh gió để chữa các chứng bệnh thì làm sao cho người bệnh phải đổ mồ hơi thì mới khỏe được.

- Nên dùng gừng để đánh gió hơn là cù là hoặc dầu nóng. Gừng cắt mặt dập thớ (cắt ngang) để nước gừng thấm vào da. Gừng gây nóng dịu, sâu, kéo dài...Dầu nóng thì nên dùng dầu tinh chất bạc hà.

Sau khi đánh gió xong thì phải uống thêm thuốc thích hợp với chứng bệnh, uống đúng liều lượng với một ly nước giải cảm.

CÁC CÂY THUỐC DỄ TÌM ĐỂ CHỮA CÁC BỆNH THÔNG THƯỜNG
Được đăng bởi Lê Trần Ngự Vũ lúc 6/30/2008 07:46:00 CH
Nhãn: Sinh tồn nơi hoang dã 0 nhận xét
Kỹ năng sinh tồn nơi hoang dã
1. Lời nói đầu
2. Đối diện
3. Chuẩn bị vào nơi hoang dã
4. Vật dụng mang theo
5. Thất lạc trong rừng
6. Tai nạn
7. Liên lạc với phi cơ
8. Truyền tin
9. Trôi dạt trên biển
10. Sa mạc
11. Băng tuyết
12. Đầm lầy
13. Vượt sông suối
14. Vượt đồi núi
15. Leo vách đá
16. Tìm phương hướng
17. Đọc và sử dụng bản đồ
18. Nước
19. Lửa
20.Thực phẩm
21. Săn bắn
22. Đánh bắt
23. Đánh bắt dưới nước
24. Nấu nướng
25. Bảo quản thực phẩm
26. Nơi trú ẩn
27. Dây - Lạt - Nút dây
28. Tổ chức cuộc sống nơi hoang dã
29. Thiên nhiên nguy hiểm
30. Bảo vệ sức khỏe
31. Cấp cứu
(Theo Sinh tồn nơi hoang dã của Phạm Văn Nhân)
Được đăng bởi Lê Trần Ngự Vũ lúc 6/30/2008 07:33:00 CH
Nhãn: Sinh tồn nơi hoang dã 0 nhận xét
LỬA TRẠI
- Trong một cuộc cắm trại (có ở lại đêm) sẽ không trọn vẹn nếu thiếu lửa trại. Nhưng đây cũng là một hoạt động dễ bị hiểu lầm và lạm dụng nhiều nhất trong sinh hoạt.
- Hãy nên nhớ rằng: lửa trại không phải là một buổi trình diễn văn nghệ cho trại sinh có dịp giải trí sau một ngày hoạt động, hay để giúp vui cho dân chúng trong vùng, hoặc để phô diễn tài nghệ cá nhân... mà chúng ta phải lưu ý đến tính chất giáo dục và mục đích rèn luyện của lửa trại. Lửa trại không dành cho các tài tử hay diễn viên chuyên nghiệp mà dùng cho các trại sinh. Ở đây, họ được giao lưu kết bạn, xây dựng tình đồng đội, giao lưu... được cùng vui chơi, ca hát, nhảy múa, đóng kịch... giúp các bạn phát triển năng khiếu nghệ thuật, lòng tự tin, mạnh dạn, óc quan sát, trí tưởng tượng...- Ngoài ra, lửa trại còn để lại trong tâm hồn trại sinh những dấu ấn sâu sắc, khó quên, nhất là những buổi lửa tĩnh tâm, lửa dặm đường.- Lửa trại phải diễn ra ở khung cảnh thiên nhiên thoáng đãng, tránh những khu vực đông đúc nhiều người qua lại, để bầu không khí được thân mật, ấm cúng, các trại sinh dễ dàng biểu lộ khả năng hay mạnh dạn sinh hoạt.- Có nhiều loại lửa trại, nhưng tựu trung được chia làm hai loại chính:

A. LỬA TRẠI CƠ BẢN:

Lửa trại cơ bản cũng chia thành nhiều loại như: lửa vui, lửa dặm đường (thanh đàm, mạn đàm), lửa tĩnh tâm...

1. Lửa vui:
- Đây là một hình thức của lửa trại nguyên thủy như các cổ nhân ta xưa, khi phát hiện ra lửa; cứ đêm đêm họ cùng tụ tập bên đống lửa, nghỉ ngơi, sưởi ấm, xua đuổi bóng đêm và thú dữ. Họ kể cho nhau nghe những chuyện đã làm, dự kiến những chuyện sẽ làm... Họ nói, họ hát cho nhau nghe, họ múa, họ nhảy để cảm tạ thiên nhiên, thần thánh, trời đất...

- Lửa vui thường dành cho các tiểu trại, trong những đêm không có lửa trại chính thức.

- Loại lửa trại này sau khi đốt lửa lên rồi, các trại sinh đến tụ tập bên đám lửa kể chuyện hay đàn hát tự do. Không có chương trình hay nghi thức sắp đặt trước. Trại sinh muốn tham dự hay không tùy ý. Nhưng phải có một anh chị phụ trách ở đó giám sát, không cho xuất hiện những ngôn ngữ hay hành động quá đáng. Trong những lần lửa trại như thế này, người phụ trách sẽ nhận thấy rằng: Chính nhờ ngồi quanh đống lửa để chuyện trò thân mật, mình mới có thể tìm hiểu các em một cách sâu sắc hơn bất cứ một dịp nào khác. Cũng chính tại nơi đây, bầu không khí thân hữu nảy nở, khiến những e dè thường nhật bị xóa bỏ, chúng ta sẽ có thể dễ dàng chuyện trò thân mật hơn.

2. Lửa dặm đường:

- Đây là loại lửa trại đặc trưng của những anh chị đã trưởng thành. Hình thức tổ chức cũng giống như lửa vui, nhưng (có thể) có những chủ đề sâu sắc hơn để cùng bàn luận, đàm đạo... trong không khí thân mật, thoải mái.

- Như những người lữ hành, du mục, sau những chặng đường dài, họ đốt một đống lửa bên đường để tạm nghỉ. Ôn lại chặng đường đã qua và chuẩn bị cho chặng đường sắp đến. Họ truyền đạt cho nhau những kinh nghiệm sống, những kiến thức cuộc đời, động viên tinh thần, an ủi giúp đỡ lẫn nhau...

- Lửa dặm đường tổ chức rất gọn nhẹ, ấm cúng, thân mật... Đây cũng là một buổi thanh đàm thoải mái và tự do, ai muốn ngâm thơ, đàn hát, kể chuyện... tùy thích.

3. Lửa tĩnh tâm:

- Thường được tổ chức sau các chương trình lửa trại, khi tất cả các trại sinh không phận sự đã về lều, chỉ còn lại các đối tượng đã được xét chọn, những người có trách nhiệm và các anh chị phụ trách. Đây là một phương pháp giáo dục tâm hồn, nâng cao tinh thần hướng thượng...

- Trong tình thân ái cởi mở, những người được chọn nói lên những suy nghĩ, thắc mắc, ước nguyện... để chia sẻ với những người tham dự. Những người này sẽ hướng dẫn, động viên, giải tỏa và bồi dưỡng thêm cho đối tượng. Sau đó, tùy theo nội lệ của từng đơn vị, sẽ có nghi thức tuyên hứa hay kết nạp.

- Dù mỗi hoạt động, mỗi đơn vị có nghi thức tĩnh tâm khác nhau, nhưng tất cả đều hướng tới điều thiêng liêng cao đẹp nhất của con người.

B. LỬA TRẠI NGHI THỨC:

- Loại lửa trại này bầu không khí hoàn toàn khác hẳn. Sẽ có nghi thức khai mạc và chương trình sắp đặt từ trước - do một quản trò và một quản lửa điều hành buổi lửa trại được chia thành nhiều hình thức:

1. Lửa trại khai mạc:

- Đây là buổi lửa trại trong đêm đầu tiên ở đất trại - có thể xem đây cũng là một nghi thức khai mạc.

- Nội dung gồm những tiết mục có tính cách tự giới thiệu và kết bạn (nếu có nhiều đoàn cùng tham dự). Nên ngắn gọn - không kéo dài quá 1 giờ 30 phút.

2. Lửa trại tổng kết - tuyên dương:

- Đây là buổi lửa trại quan trọng nhất. Thường tổ chức vào đêm bế mạc trại. Đây cũng là buổi tổng kết, trao giải, biểu dương, khen thưởng những cá nhân và đơn vị đã xuất sắc trong kỳ trại.

- Chương trình được Quản trò lồng vào những tiết mục đã thu gom ở đơn vị hoặc cá nhân và được sắp xếp sao cho thật linh động, hấp dẫn.

3. Lửa trại truyền thống - kỷ niệm:

- Được tổ chức nhân kỷ niệm một sự kiện hay một danh nhân, một trong dịp sinh nhật của tổ chức Đoàn Hội hay của nhân vật quan trọng trong vùng.

- Lửa kỷ niệm - Đây là loại lửa trại có đề tài riêng - cho nên nội dung chỉ xoay quanh chủ đề đó. Khi tổ chức những hình thức lửa trại này, theo phép xã giao, ta nên mời chủ đất và gia đình, những nhân vật mà đoàn tiếp xúc, những ân nhân, v.v...
C. TỔ CHỨC MỘT ĐÊM LỬA TRẠI:

Để tổ chức một buổi lửa trại cho có kết quả, chúng ta phải biết chuẩn bị những công đoạn sau:

1. Chuẩn bị cơ bản:

- Thông báo cho các Tiểu trại hay các Đội trưởng trước về chủ đề của buổi lửa trại và số lượng tiết mục mà họ có thể tham gia.

- Trại sinh nếu chưa rành các nghi thức thì phải tập luyện hay ôn lại cho thống nhất và đồng bộ. Ôn lại những băng reo, bài hát, luân xướng, ca múa cộng đồng...

- Các dụng cụ hóa trang thường được tận dụng những thứ có sẵn như chăn màn, dụng cụ đi trại... chứ đừng đặt nặng vấn đề đạo cụ, may sắm như một đoàn hát. Các tiết mục trình diễn, được chuẩn bị trong thời gian ở trại. Nếu lửa trại có đề tài đã được thông báo trước, thì tiết mục nên xoay quanh chủ đề đã chọn.

2. Chuẩn bị địa điểm:

- Chọn một khu đất khô ráo, rộng rãi, thoáng đãng, không có tàn cây đưa ra trên đống lửa, không có những hố trũng, gốc cây, rễ cây... Dọn sạch sẽ đất đá và gom sạch lá khô chung quanh.

- Chuẩn bị chỗ ngồi cho khách mời (nếu có) và Ban Tổ chức được thoải mái tự do, trên gió, gần nơi trình diễn...

- Nếu là sân xi măng hay gạch, chúng ta lót thiếc, vỏ cây, lá cây... ở dưới trước, sau đó đổ cát lên, để sân không bị quá nóng dẫn đến nứt nổ.

3. Chọn đề tài:

- Để cho buổi lửa trại có ý nghĩa, chúng ta nên cô đọng chương trình trong một chủ đề nào đó.Thí dụ: Nếu là buổi lửa trại kỷ niệm ngày thành lập đơn vị, chúng ta nên xoay quanh nguyên lý phong trào, truyền thống đơn vị... Nhưng vẫn không làm mất đi sự vui tươi, trẻ trung, dí dỏm...

- Hoặc đang cắm trại tại một địa danh lịch sử, một đền thờ anh hùng dân tộc, một di tích... thì chủ đề cũng nên đặt trọng tâm vào đó, tìm hiểu và nêu gương để giáo dục trại sinh.

4. Sắp xếp củi:

Có nhiều hình thức sắp xếp củi cho một buổi lửa trại như: hình nón, hình kim tự tháp, hình lục lăng, hình tam giác... Cho dù sắp kiểu nào, thì chúng ta cũng phải cho những vật dễ bắt lửa ở dưới trước, rồi sắp cành cây hay củi nhỏ lên, sau hết mới chất củi lớn (nhớ chừa nơi châm lửa).

5. Sắp xếp đội hình:

- Nếu là lửa trại nguyên thủy thì quá dễ dàng, vì trại sinh tự động đến ngồi xuống xung quanh đống lửa là đủ. Nhưng nếu lửa trại tăng cường, nhất là những buổi lửa trại có quan khách và khán giả tham dự, thì chúng ta phải biết cách sắp xếp đội hình.

- Trại sinh ngồi hai ba vòng, không nên ngồi quá rộng, vì sẽ không nghe được tiếng nói của diễn viên (nếu không có hệ thống khuếch âm), cũng đừng để khán giả tràn vào nơi trình diễn, gây cảnh lộn xộn.

- Quan khách được tiếp rước và hướng dẫn đến chỗ ngồi dành sẵn, trên gió, gần nơi trình diễn.

- Nhưng các bạn hãy cẩn thận, một buổi lửa trại mà có quan khách và khán giả thì sẽ biến thành buổi biểu diễn văn nghệ, không khí thân mật ấm cúng sẽ không tồn tại. Các trại sinh dễ rụt rè nhút nhát bỏ mất dịp thử nghiệm tài năng. Như thế thì giá trị giáo dục của lửa trại sẽ chẳng còn bao nhiêu.

6. Chương trình lửa trại:

- Lửa trại là một buổi trình diễn văn nghệ tự nhiên nhưng không vì thế mà chúng ta thiếu cố gắng và dễ dãi với mình để đi đến coi thường tình cảm của khán giả, và tự hạ thấp tính năng giáo dục của nghệ thuật.

- Hãy suy nghĩ để sáng tạo cái đẹp, cái thiêng liêng của ngọn lửa - đừng để lố bịch, nhàm chán, rẻ tiền vì thiếu chuẩn bị.

- Chương trình lửa trại được Quản trò sửa soạn ít nhất là một ngày. Nhưng hình thức và nội dung được giữ kín để tạo sự hấp dẫn (ngoại trừ Quản lửa, để kịp phối hợp). Sau khi thu thập các tiết mục của các đơn vị - Quản trò sẽ tùy nghi sắp xếp, nhưng ca hát thường phải chiếm tối đa, nhất là ca múa cộng đồng. Như thế, bầu không khí sẽ sôi động, bớt uể oải, nhàm chán.

- Nên thu xếp sao cho các anh chị Ban Tổ chức và cả quan khách phát biểu hay tham gia một vài tiết mục hay mẩu chuyện (nhưng phải hỏi ý kiến của họ trước).- Thường thì chương trình được thiết lập theo khung sau:

+ Tập hợp (hò lửa).

+ Đón tiếp khách mời và Ban Tổ chức.

+ Gọi lửa, châm lửa, nhảy lửa.

+ Lời khai mạc (nếu có).

+ Sinh hoạt cộng đồng, văn nghệ, ca múa...

+ Giờ tinh thần (câu chuyện tàn lửa).

+ Giải tán.

- Quản trò nên sắp xếp làm sao cho đến khi gần kết thúc, thì chương trình trầm lắng dần dần và kết thúc trong im lặng.

7. Thủ tục khai mạc:

a. Cách thứ 1:

- Quản trò và một số người “Hò lửa”.

- Sau mỗi bài hát “Gọi lửa” thì nêu tên từng đơn vị mời ra khu vực lửa trại.

- Đơn vị nào nghe gọi tên mình sẽ “A” lên một tiếng thật dài và chạy ra.

- Sau khi trại sinh đã ra khu vực lửa trại hết thì mới mời các anh chị phụ trách và quan khách.

- Trại trưởng hay chủ tọa châm lửa.

- Hát bài “nhảy lửa” và cùng nhảy chung.

- Lời khai mạc (nếu có).

- Chương trình sinh hoạt, văn nghệ.

b. Cách thứ 2:

- Anh chị Ban Tổ chức tiếp tân đón quan khách từ xa và hướng dẫn vào khu vực lửa trại.

- Thần Bóng đêm ra chận lại, vừa khoe khoang khoác lác vừa hù dọa.

- Thần Ánh sáng (Quản trò) xuất hiện trong tiếng động inh tai (do trại sinh gõ bằng đủ thứ loại dụng cụ) với cây đuốc trong tay, đánh đuổi Thần Bóng đêm và hướng dẫn quan khách an tọa (trại sinh im lặng). Thần Ánh sáng lên tiếng trấn an và ca ngợi ngọn lửa, ca ngợi ánh sáng...

- Thần Ánh sáng hát bài “Gọi lửa” lần thứ nhất, tất cả hát lại lần thứ hai.

- Quản trò mời anh chị phụ trách hay chủ tọa châm lửa.- Múa và hát bài “Nhảy lửa”.

- Chương trình sinh hoạt, văn nghệ....

8. Bế mạc:

- Hết chương trình, Trại trưởng cám ơn quan khách và khán giả. Anh chị BTC tiễn quan khách trong khi trại sinh ca bài “Tạm biệt”.

- Nếu có tĩnh tâm, tuyên hứa thì giờ này bắt đầu chuẩn bị tiến hành.

9. Câu chuyện tàn lửa:

- Nếu lửa trại thường, thì trước khi bế mạc, Trại trưởng có “Câu chuyện tàn lửa” với tất cả trại sinh. Đây cũng là giờ tinh thần với những lời tâm tình nhắn nhủ ngắn gọn.

- Sau đó hát bài “Tàn lửa” rồi từ từ im lặng rút lui về lều của mình, tuyệt đối không vỗ tay, reo hò hay hô giải tán lúc này.

10. Quản trò:

- Người ta thường hiểu lầm: Quản trò là một anh hề, lên nhảy nhót, uốn éo để chọc cười thiên hạ. Không đơn giản như vậy đâu, người Quản trò là linh hồn của buổi lửa trại, nó quyết định sự thành đạt của buổi lửa trại đó. Người Quản trò ngoài óc khôi hài, dí dỏm, còn phải năng động, phản ứng nhanh, san lấp ngay những lỗ hổng của chương trình.

- Người Quản trò phải có nhiều vốn liếng sinh hoạt như: trò chơi, băng reo, ca múa cộng đồng... Phải biết lúc nào tạo bầu không khí sôi động, lúc nào phải trầm lắng. Biết cắt ngang một cách khéo léo những tiết mục quá dài hoặc có nội dung nhảm nhí. Biết phối hợp cùng Quản ca và Quản lửa để tạo nên một chương trình sống động.

11. Quản ca:

- Thường thì nhiệm vụ này Quản trò có thể kiêm nhiệm nhưng nếu trong buổi lửa trại lớn hay Quản trò không có năng khiếu về ca hát, thì phải có Quản ca để chia bớt gánh nặng.

- Quản ca không cần phải là ca sĩ mà chỉ cần biết hát và thuộc nhiều bài hát sinh hoạt, vui ca... Biết bắt nhịp, chia bè hát đuổi (luân xướng), biết một số bài ca múa cộng đồng, biết chọn bài hát cho đúng với hoàn cảnh, biết trại sinh đã thuộc những bài ca múa nào và cũng phải có óc hài hước, vui tươi, dí dỏm, phối hợp với Quản trò, Quản lửa cho nhịp nhàng.

12. Quản lửa:

- Là người chịu trách nhiệm về củi đốt và ánh sáng (nếu tổ chức lớn thì nên lập ra một ban ánh sáng) cho nên người Quản lửa phải biết kỹ thuật sắp củi sao cho cháy đều, hiểu rõ tính chất cháy của những loại củi khác nhau. Lo dự trù củi cho đủ dùng, không được thiếu nửa chừng. Là người chọn khu vực để đốt lửa, Quản lửa phải biết phòng hỏa, tránh đốt lửa dưới tàn cây xanh hay gần những cây có dầu.

- Trong lúc sinh hoạt văn nghệ, phải phối hợp với Quản trò, Quản ca, để biết khi nào cần tăng, khi nào cần giảm ánh sáng. Vì vậy Quản lửa phải biết một số xảo thuật ánh sáng và cách tạo màu cho lửa.

- Ghi nhớ:

+ Quản trò, Quản lửa, Quản ca không nên xuất hiện khi trình diễn, trừ trường hợp cần thiết.

+ Anh chị phụ trách nào muốn tham gia cũng phải báo cho Quản trò để sắp xếp, không được giẫm chân lên phần việc của họ.

13. Công cụ hỗ trợ cho lửa trại:

a. Chuột lửa:

Là một công cụ dùng cho việc châm lửa khai mạc, có nhiều cách để chế tạo chuột lửa, tùy theo sáng kiến của mỗi người. Hoặc từ trên cao chạy xuống đống lửa hoặc từ dưới thấp chạy lên cao rồi mới xuống đống lửa.

* Từ trên cao chạy xuống:

- Căng dây kẽm đến thân cây hay một điểm cao và có độ dốc vừa phải, đầu dây kẽm (phía đống lửa) chúng ta nối bằng một đoạn dây nylon ngắn để sau khi cháy thì dây đứt, không gây trở ngại cho việc trình diễn.

- Lấy lon sữa bò, lon bia... cho giẻ tẩm dầu vào, lấy dây kẽm làm thành một cái quai. Dùng tim đèn nối dài (hay vải se lại thành sợi) cột vào lon.

- Treo lon trên điểm cao nhất của sợi dây kẽm, cố định bằng dây thun, thòng dây tim xuống cho vừa tầm.

- Khi đốt, dây thun đứt, lon lửa sẽ trôi theo độ dốc xuống đống lửa.

* Từ dưới chạy lên:

- Nguyên tắc thì vẫn trượt theo dây kẽm nhưng một bên thì nhờ trọng lượng, một bên thì nhờ dây thun đàn hồi. Loại chuột lửa này chúng ta để cho hộp lon nằm ngang và làm hai khoen bằng dây kẽm để dễ dàng trượt theo dây hướng dẫn.

- Từ một góc nào đó, dùng dây thun tạo lực đàn hồi để bắn mồi lửa lên cao, có sẵn chuột lửa. Từ đó chuột sẽ chạy xuống đống củi.b. Làm đuốc:

- Dùng vải quấn quanh một cành cây tươi, lấy dây kẽm buộc lại, nhúng vào dầu. Cách này giản dị nhưng lửa cháy không bền.

- Lấy một lóng tre, trúc, nứa... vừa tay cầm và có mắt (loại còn tươi), đổ dầu vào lóng tre và nhét giẻ lại, ta có một cây đuốc cháy khá lâu.

- Chẻ một lóng tre ra làm 6 hay 8 phần đều nhau, lấy lon bia hay nước giải khát (loại nhỏ) để vào và dùng dây kẽm cố định cho thật chặt, đoạn đổ dầu và nhét giẻ vào.

c. Tạo màu cho lửa:

Trong khi trình diễn văn nghệ, nếu Quản lửa biết cách tạo màu cho lửa, thì tiết mục sẽ thêm hấp dẫn và vui mắt. Dưới đây là một số vật liệu mà Quản lửa phải chuẩn bị để tạo màu cho lửa.

+ Lửa bừng sáng: Ném vào lửa những bao nylon nhỏ có chứa dầu lửa hay xăng, rơm khô, giấy cắt vụn, thuốc pháo bông.

+ Tạo khói: Ném vào lửa rơm ướt, lá cây tươi.

+ Lửa màu đỏ: Bột than.

+ Lửa xanh: Bột sulfate đồng, giấy bạc trắng.

+ Lửa vàng: Muối bọt, nhựa thương phẩm.

+ Lửa tóe bông: Muối hột.Trên đây là một số vấn đề chung về tổ chức 1 đêm lửa trại, trong quá trình hoạt động tùy theo điều kiện cụ thể về địa điểm, đối tượng, nội dung trại ... mà ta tổ chức hoạt động lửa trại cho phù hợp.
Được đăng bởi LÊ VĂN CHINH lúc 12/10/2008 07:21:00 CH
Nhãn: Sinh hoạt lửa trại 0 nhận xét

Người theo dõi

HĐĐ HUYỆN HÀM THUẬN NAM

chào mừng các bạn đến với BLOG http://tptdoihtn.blogspot.com